Một số vướng mắc trong áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn

Trong 7 năm thi hành Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (được sửa đổi, bổ sungbởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP), bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung để việc áp dụng biện áp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn được thuận lợi và có hiệu quả cao, trangtinphapluat.com xin giới thiệu một số vướng mắc và đề xuất hướng khắc phục:

  1. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong các quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP và Thông tư số 20/2014/TT-BTP

Luật XLVPHC và Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã” có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT. Tuy nhiên, Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không có quy định về giao quyền áp dụng biện pháp GDTXPTT cho cấp phó. Hiện nay, trên thực tế có trường hợp xã, phường, thị trấn chưa kịp bổ sung chức danh Chủ tịch UBND với các lý do: Nghỉ hưu, thôi việc, được điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái, từ chức, miễn nhiệm…

– Tại Điểm c, đ Khoản 2 Điều 4 của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định về đối tượng, thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn còn bất cập. Trong thời gian 06 tháng có ít nhất 02 lần vi phạm bị xử lý vi phạm hành chính mới có thể áp dụng biện pháp này nhưng Nghị định lại không nêu cụ thể số lượng vi phạm tại địa phương đối tượng cư trú hay nơi khác, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Trường hợp bao gồm cả số lượng hành vi vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính tại nơi khác nhưng Nghị định không quy định điều khoản bắt buộc cơ quan, cá nhân xử phạt vi phạm hành chính phải có trách nhiệm gửi hồ sơ xử phạt về địa phương mà người vi phạm cư trú để theo dõi, quản lý. Dẫn đến một số trường hợp, khi đối tượng bị địa phương phát hiện xử phạt vi phạm hành chính lần đầu nhưng đối tượng có thể đã vi phạm trước đó ở địa bàn khác; hoặc đối tượng có cư trú tại địa phương nhưng thường xuyên lang thang, vắng mặt, ít vi phạm tại địa phương nhưng lại vi phạm nhiều tại địa bàn khác trong khi đó Nghị định lại chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các địa phương nên gây không ít khó khăn trong quá trình xác minh và xử lý.biện pháp xử lý hành chính

– Quy định đối tượng vi phạm phải có mặt tại Hội đồng xét duyệt để xét duyệt và công bố biện pháp giáo dục tại xã, phường là khó thực hiện được. Bởi vì, một số đối tượng vi phạm bị triệu tập nhưng cố tình trốn tránh không chịu hợp tác, trong khi đó Nghị định không có chế tài xử lý những hành vi trốn tránh này.

– Điểm c và đ khoản 2 Điều 4 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định về điều kiện “đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi…”. Tuy nhiên, trường hợp đối tượng vi phạm trên nhiều địa bàn khác nhau nhưng Luật và Nghị định không có quy định về việc cơ quan, người có thẩm quyền hoặc cá nhân phải có trách nhiệm thông tin, báo cáo, gửi về địa phương nơi người vi phạm cư trú để theo dõi quản lý; trong khi cơ chế phối hợp giữa cá địa phương còn nhiều hạn chế nên việc áp dụng biện pháp này trên thực tế còn nhiều hạn chế.

– – Đoạn 3 khoản 1 Điều 13 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định: “Không có nơi cư trú ổn định là trường hợp không xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú của người vi phạm người đó thường xuyên đi lang thang, không ở một nơi cố định hoặc trường hợp xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú của người vi phạm nhưng người đó thường xuyên đi lang thang, không ở một nơi cố định”. Như vậy, ở trường hợp đầu tiên, ngoài không xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú thì phải có thêm yếu tố “thường xuyên đi lang thang” thì mới được xác định là “không có nơi cư trú ổn định”. Thực tế có nhiều trường hợp không đăng ký thường trú hoặc tạm trú ở bất kỳ một nơi nào, không phải là đối tượng thường xuyên đi lang thang, ví dụ: thợ xây, thợ theo công trình, lái xe đường dài,… thường không có nơi ở cố định. Do đó, rất khó để xác định những đối tượng này trên thực tế có phải là đối tượng không có nơi cư trú ổn định hay không.

Điều 33, Điều 34 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định về việc đi lại, vắng mặt, thay đổi nơi cư trú, theo đó, người được giáo dục có thể vắng mặt tại nơi cư trú nhưng phải được khai báo với cơ quan có thẩm quyền, nhưng trong thực tế nhiều trường hợp cố tình vắng mặt, di chuyển nơi ở không khai báo, trong khi đó chế tài xử lý đối với những trường hợp này lại không được quy định, dẫn đến công tác quản lý cư trú, đi lại, vắng mặt của người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính GDTXPTT gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc quy định các mốc thời gian “15 ngày” và “30 ngày” chưa rõ là các ngày liên tục hay tổng số ngày được phép vắng mặt tại địa phương

– Điều 35a Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định: “Người được giáo dục sau khi đã chấp hành ít nhất 1/2 thời gian giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà không tiến bộ, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc…”. Tuy nhiên, trong trường hợp đối tượng chưa chấp hành được ít nhất ½ thời gian giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà không tiến bộ, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì chưa có hướng xử lý cụ thể.

Luật XLVPHC hiện hành chỉ quy định việc hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 111); giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 112). Tuy nhiên, Điều 36 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP lại quy định việc miễn chấp hành phần thời gian còn lại của quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT (chưa phù hợp với quy định của Luật XLVPHC.

– Điều 35a Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định: “Người được giáo dục sau khi đã chấp hành ít nhất 1/2 thời gian giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà không tiến bộ, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc…”. Tuy nhiên, trong trường hợp đối tượng chưa chấp hành được ít nhất ½ thời gian giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà không tiến bộ, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì chưa có hướng xử lý cụ thể UBND cấp xã nơi ra quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn vừa quy định trách nhiệm của Trưởng Công an xã trong việc quản lý hồ sơ.

2. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện các nội dung quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP và Thông tư số 20/2014/TT-BTP

– Đối với đối tượng nghiện ma túy theo Điểm d, Khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP thì hồ sơ phải có văn bản xác nhận tình trạng nghiện do cơ sở y tế có thẩm quyền xác nhận nhưng hiện nay đội ngũ y tế ở UBND xã, phường ít được tập huấn, trình độ chuyên môn còn hạn chế nên họ chưa đủ khả năng xác định tình trạng nghiện của đối tượng nghiện. Do vậy, việc lập hồ sơ đối với đối tượng nghiện ma túy là rất khó khăn.

– Việc quản lý cư trú, đi lại, vắng mặt của người được giáo dục theo Điều 33, 34 của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP còn gặp nhiều khó khăn, chỉ áp dụng được đối với trường hợp tự nguyện khai báo vắng mặt. Trường hợp cố tình vắng mặt, di chuyển chỗ ở thì rất khó quản lý.

– Công tác giáo dục đối tượng vi phạm ở một số địa phương chưa được hội, đoàn thể tại cơ sở, khu dân cư và gia đình …quan tâm đúng mức. Biện pháp giáo dục chưa đa dạng.

– Số lượng cán bộ cũng như cơ sở vật chất để giáo dục về kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề cho người được giáo dục… cũng như kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm giáo dục, giúp đỡ người được phân công giáo dục còn nhiều hạn chế.

– Biểu mẫu trong quá trính lập hồ sơ giáo dục còn nhiều, nên hợp nhất một số biểu mẫu cũng như rút gọn một số bước trong quy trình giáo dục đối tượng.

Điều 4 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định trong thời hạn 06 tháng đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm đến lần thứ 3 thì mới lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT nên số lượng đối tượng đủ điều kiện theo thời gian trên là rất ít, chưa đáp ứng được công tác quản lý giáo dục đối tượng hiện nay

  1. Đề xuất hoàn thiện pháp luật

– Đề nghị quy định kéo dài thời gian áp dụng đối với trường hợp đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời quy định trách nhiệm phối hợp giữa các địa phương trong việc trao đổi, cung cấp thông tin vi phạm.

– Về thời hiệu, đề nghị quy định theo hướng thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục là 06 tháng kể từ ngày ra quyết đinh xử phạt vi phạm hành chính lần 2 thay vì kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm hành chính bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP để thống nhất với thời hiệu tại Luật Xử lý vi phạm hành chính và tránh trường hợp thời gian xử lý hành vi vi phạm hành chính lần 02 còn nhưng thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thì đã hết. Riêng đối với trường hợp đối tượng thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, đề nghị quy định thời hiệu 06 tháng hoặc 01 năm kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm thay vì thực hiện hành vi vi phạm.

– Đề nghị bổ sung chế tài áp dụng đối với trường hợp người vi phạm cố tình trốn tránh, không chịu hợp tác với cơ quan chức năng khi triệu tập và thực hiện các biện pháp giáo dục bắt buộc.

Tác giả Nguyễn Quốc Sử

Dịch vụ: Tư vấn pháp luật, bài giảng pháp luật, Tài liệu thi Công chức, Viên chức, thi nâng ngạch công chức... Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *