Trangtinphapluat.com giới thiệu tới bạn đọc chuyên đề thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về quyền sở hữu tài sản ở Việt Nam. Chuyên đề gồm có các phần:
Phần 1: Tổng quan pháp luật về quyền sở hữu tài sản
Phần 2. Đánh giá pháp luật về quyền sở hữu tài sản
Phần 3. Thực trạng thi hành pháp luật về sở hữu tài sản
Phần III. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT
Bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn thi hành pháp luật về quyền sở hữu tài sản cho thấy, những bất cập trong quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện; mặt khác, thực tiễn thi hành pháp luật cũng đã và đang chỉ ra nhiều vấn đề bất cập, chưa bảo đảm thị trƣờng vận hành thông suốt, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền KTTT hiện đại và hội nhập, quản lý, điều hành, áp dụng pháp luật còn chồng chéo, nhiều trƣờng hợp có những cách hiểu khác nhau, dẫn đến tình trạng khó thực hiện. Từ đó dẫn đến những chủ trương của Đảng, pháp luật còn có sự gãy khúc trong quá trình áp dụng trên thực tế. Còn khoảng cách khá lớn giữa mục tiêu xây dựng chính sách, pháp luật và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực; tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình còn thấp. Thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trên một số lĩnh vực còn chồng chéo, rƣờm rà, phức tạp. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phƣơng thiếu chặt chẽ, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý tập trung thống nhất của Trung ương và tính năng động, chịu trách nhiệm của địa phương.
1. Thực tiễn thực thi pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong một số lĩnh vực
1.1. Quyền sử dụng đất
– Nguồn lực về đất đai vẫn chưa thực sự đƣợc khai thác và phát huy đầy đủ và bền vững để trở thành nguồn nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp.
– Khó khăn trong tiếp cận đất đai vẫn là một trong những rào cản để cải thiện môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.
– Quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp diễn ra còn chậm, chƣa theo kịp nhu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp nói chung, cho phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nói riêng; đất đai manh mún đang là yếu tố cản trở người dân và doanh nghiệp đầu tư dài hạn vào nông nghiệp.
– Tình trạng vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai còn diễn ra tại nhiều địa phương. Một số đơn vị do lãnh đạo thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý đã để xảy ra tình trạng lấn chiếm đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích, tự ý chuyển mục đích sử dụng, không đăng ký biến động với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không thực hiện nghiêm các nghĩa vụ tài chính theo quy định.
– Việc tổ chức thi hành pháp luật còn hạn chế, mặc dù pháp luật đã có quy định nhưng không được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ trong khi công tác thanh tra, kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật chưa thực sự có hiệu quả. Cấp ủy, chính quyền địa phương chƣa quan tâm đúng mức, chỉ đạo cụ thể, sát sao và thƣờng xuyên. Vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai chưa được thực hiện tốt.
(Điểm mới của Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai)
– Bộ máy tổ chức làm công tác quản lý nhà nƣớc nhiều nơi chưa tương xứng
với yêu cầu tổ chức triển khai thi hành pháp luật trên thực tế. Văn phòng Đăng ký đất đai một cấp chậm kiện toàn, Tổ chức phát triển quỹ đất mặc dù đã được thành lập nhưng lại chưa được quan tâm bố trí nguồn lực đầy đủ để thực hiện chức năng tạo quỹ đất; năng lực cán bộ, công chức, viên chức chƣa đáp ứng yêu cầu; điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu và lạc hậu, lực lƣợng cán bộ, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
1.2. Nhà ở và bất động sản khác
– Luật Nhà ở quy định về quản lý, vận hành chung cư, cụm chung cư chưa đầy đủ, chưa có chế tài đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trước tình hình tranh chấp xảy ra tại chung cư có xu thế ngày càng gia tăng, trọng tâm là các vấn đề tổ chức hội nghị chung cư, bầu Ban quản trị, tranh chấp quỹ bảo trì chung cư, quỹ quản lý vận hành chung cư, các nguồn thu từ bãi giữ xe, các không gian có thể cho thuê sinh lợi, tranh chấp về sở hữu chung, sở hữu riêng, về chất lượng công trình, thiết bị.
– Về thực hiện quyền đối với nhà ở hình thành trong tương lai
Theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Nhà ở 2014 thì vốn sử dụng cho phát triển nhà ở thương mại gồm 04 loại, trong đó có vốn huy động thông qua hình thức góp vốn, hợp tác đầu tƣ, hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Trên thực tế, trong giai đoạn dự án chưa đáp ứng các điều kiện để bán nhà ở hình thành trong tương lai (thường là chưa có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng) thì các chủ đầu tư sẽ tổ chức bán hàng với các phương thức như ký kết huy động vốn góp khi nào đủ điều kiện mua bán thì sẽ tiến hành ký kết hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai chính thức. Mặc dù Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày
20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở cũng nêu rõ chủ đầu tư không được phân chia sản phẩm nhà ở hoặc để ưu tiên đăng ký, đặt cọc, hưởng quyền mua nhà ở hoặc để phân chia QSDĐ trong dự án cho bên được huy động vốn, tuy nhiên, phương thức này thật sự chƣa có quy định một cách chi tiết, rõ ràng dẫn đến vẫn có những thỏa thuận “ngầm” và những tranh chấp phức tạp trong thời gian qua.
– Chính sách tạo điều kiện cho người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam chƣa đạt kết quả như kỳ vọng. Theo thống kê của Bộ Xây dựng, đến cuối năm 2019 có khoảng gần 3.000 tổ chức, cá nhân người nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài mua nhà tại Việt Nam. Cụ thể, có 944 tổ chức, cá nhân người nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam, được cấp giấy chứng nhận, cơ quan Việt Nam công nhận; 2.034 người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà tại Việt Nam.
– Chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý tình trạng phân lô đất nông nghiệp trái phép, chưa có dự án đƣợc cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mà đã huy động vốn kiểu kinh doanh đa cấp.
– Chưa kiểm soát được các hành vi sử dụng hình thức “vi bằng thừa phát lại” trong các giao dịch bất động sản hình thành trong tƣơng lai; Một vài địa phương chƣa quản lý chặt chẽ loại hình sản phẩm bất động sản du lịch nghỉ dưỡng (nhà phố, biệt thự trong khu du lịch).
– Các quy định liên quan đến giấy phép xây dựng, thẩm định dự án, thẩm định thiết kế xây dựng, điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, đăng ký thông tin về năng lực hoạt động xây dựng… chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mới tại những chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong thời gian qua như: yêu cầu phải “Hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh; bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy định; xóa bỏ rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có chính sách tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và tư pháp…”; “xóa bỏ các rào cản, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường sản xuất kinh doanh tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội…; đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép”; yêu cầu Chính phủ báo cáo đề xuất bổ sung trình các dự án luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, theo đó, cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản liên quan đến đất đai, xây dựng, nhà ở, đầu tư, kinh doanh để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết trong đó nhấn mạnh việc rà soát, đề xuất đơn giản hóa thủ tục hành chính, bãi bỏ các điều kiện đầu tư
kinh doanh không cần thiết, không phù hợp, bảo đảm tính minh bạch trong việc ban hành các điều kiện đầu tư kinh doanh.
– Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Xây dựng năm 2014, một số quy
định của Luật đã phát sinh những hạn chế, bất cập nhƣ thời gian cấp giấy phép xây dựng còn dài; điều kiện cấp phép xây dựng đối với một số công trình còn chưa phù hợp với thực tiễn; quy định những công trình được cấp giấy phép theo giai đoạn, phân kỳ đầu tƣ còn chƣa đáp ứng yêu cầu thực tế, chưa tạo sự chủ động linh hoạt đốivới các dự án; việc thành lập, vận hành Ban Quản lý dự án đầu tƣ xây dựng còn nhiều lúng túng, khó thực hiện; điều kiện năng lực đối với một số ngành nghề chưa bình đẳng; quy định công bố các chỉ tiêu, hệ thống định mức xây dựng, chỉ số giá, giá xây dựng, các loại hợp đồng xây dựng và các quy định liên quan đến quản lý an
toàn lao động trong thi công xây dựng công trình, đánh giá an toàn công trình xây dựng, xây dựng các công trình khẩn cấp, cấp bách, việc sử dụng năng lực tiết kiệm, hiệu quả, sử dụng vật liệu xây dựng… cũng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
– Các quy định Luật Xây dựng năm 2014 liên quan đến nhiều lĩnh vực đang
được điều chỉnh trong các luật chuyên ngành. Tuy nhiên, thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng công trình cấp đặc biệt chưa đồng bộ với thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết; chưa có sự kết nối về thời điểm thực hiện thẩm duyệt phòng cháy, chữa cháy, báo cáo đánh giá tác động môi trường với thẩm định thiết kế; quy định cơ quan đầu mối tổng hợp thẩm định và trình phê duyệt dự án đối với dự án đầu tư công có cấu phần xây dựng chƣa thống nhất với Luật Đầu tƣ công năm 2019; việc cấp giấy phép xây dựng công trình quảng cáo chưa đồng bộ với Luật Quảng cáo năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2018… Những quy định chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng, chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải sớm sửa đổi Luật Xây dựng năm 2014.
1.3. Các tài sản mã hóa
Mặc dù hiện nay vẫn chưa có khung pháp lý rõ ràng điều chỉnh vấn đề tài sản mã hoá tại Việt Nam nhưng theo số liệu thống kê thì 80% giao dịch tiền mã hoá xuất phát từ châu Á, trong đó, Việt Nam nằm trong top 04 thị trƣờng lớn nhất thế giới cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc139. Tại Việt Nam hiện nay có khoảng 1 triệu người sở hữu và tham gia giao dịch tiền mã hoá với số tiền giao dịch hàng ngày lên tới hàng trăm tỉ đồng .Như đã đề cập ở trên, vướng mắc lớn nhất hiện nay đối với vấn đề quyền sở
hữu tài sản trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nằm ở việc chưa có quy định pháp luật nào khẳng định các tài sản số là một loại tài sản.
1.4. Các đối tượng sở hữu trí tuệ do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra
Hiện nay, do AI mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tại Việt Nam, thực tiễn chưa ghi nhận khó khăn, vƣớng mắc trong việc đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT do AI tạo ra. Tuy nhiên, các nhà quản lý, hoạch định chính sách cũng đã bắt đầu đặt vấn đề “Nếu như một sản phẩm mới được tạo ra không phải do nghiên cứu của con người thì câu hỏi đặt ra là việc bảo hộ quyền SHTT sẽ được thực hiện như thế nào. Cụ thể là đối với việc xác định tác giả, xác định quyền nhân thân, thực hiện quy định về quyền tài sản của tác giả sáng chế”.
Bên cạnh đó, việc xác định quyền sở hữu đối với đối tượng quyền SHTT khi
mà trí tuệ nhân tạo đƣợc tạo ra bởi một công ty nhưng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo đó để tạo ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT lại được thực hiện bởi một công ty khác cũng sẽ là một thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách.
1.5. Dữ liệu cá nhân trên môi trường số
Thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy nhận thức pháp luật về
bảo vệ dữ liệu cá nhân trên môi trường số của cả chủ thể dữ liệu cũng như các tổ chức, cá nhân kiểm soát dữ liệu còn rất thấp. Vi phạm về dữ liệu cá nhân như mua bán dữ liệu cá nhân, tiết lộ thông tin cá nhân của người nổi tiếng trên báo chí, mạng xã hội, kể cả nhóm xã hội dễ bị tổn thương như trẻ em, ngƣời có HIV/AIDS, thu thập thông tin dân cư không được bảo mật và trái quy định của pháp luật, tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng trong giao dịch thương mại trực tuyến, thu thập thông tin cá nhân trái phép bằng mã độc… diễn ra tràn lan, công khai . Thậm chí đã có bình luận rằng tại Việt Nam thông tin cá nhân bị rao bán nhƣ bán rau. Theo nhận định của Bộ Công an thì “ngày càng nhiều chủ thể thu thập, phân tích, xử lý dữ liệu cá nhân cho mục đích khác nhau nhƣng không thông báo cho khách hàng hoặc để xảy ra hành vi vi phạm về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Nhiều dịch vụ trên không gian mạng mới xuất hiện, có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích thông tin, dữ liệu cá nhân như mạng xã hội, thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử, trò chơi trực tuyến…”. Chẳng hạn, thời gian vừa qua nhiều thông tin hành khách trong hệ thống đặt giữ chỗ của các hãng hàng không bị lộ (như tên hành khách, giới tính, lịch bay, hành trình, số hiệu chuyến bay, giờ cất cánh, hạ cánh dự kiến, kể cả số điện thoại liên lạc), các hãng taxi nắm trong tay các thông tin về hành trình, kể cả số điện thoại của hành khách để tiếp thị dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ xe taxi đi và đến sân bay…
1.6. Tài sản sở hữu trí tuệ
Có thể nói, bảo vệ (thực thi) quyền SHTT được coi là khâu yếu nhất tại Việt
Nam hiện nay. Trước hết, việc bảo vệ tài sản SHTT bằng biện pháp dân sự ở nước ta được coi là điểm yếu và thách thức lớn nhất của hệ thống SHTT của nước ta hiện nay. Về bản chất, quyền SHTT là quyền dân sự, cần được thực thi, bảo vệ chủ yếu bằng biện pháp dân sự thông qua hệ thống Toà án, như thế mới có thể bù đắp được đầy đủ các thiệt hại của chủ sở hữu tài sản SHTT do hành vi xâm phạm. Đây cũng là xu thế chung trên thế giới về thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc thực thi quyền SHTT bằng các biện pháp dân sự lại không nhiều. Hầu hết các chủ thể quyền đều lựa chọn các biện pháp xử phạt hành chính để thực thi quyền SHTT của mình.
Việc xử lý hình sự đối với nhóm tội phạm xâm hại SHTT cũng không đơn giản vì nhiều quy định pháp luật còn chƣa rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong áp dụng, thực thi pháp luật, chẳng hạn nhƣ quy định về “quy mô thương mại” trong Bộ luật hình sự dẫn đến rất khó áp dụng cơ chế hình sự trong thời gian qua. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 đã thay cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng một khái niệm mới “với quy mô thương mại” . Trên thực tế chưa có văn bản nào hướng dẫn quy mô thương mại là thế nào, phạm vi thế nào, gây thiệt hại ở mức nào thì được coi là “quy mô thương mại”. Hầu như rất ít vụ việc vi phạm quyền SHTT được đưa ra khởi tố, truy tố và xét xử do vƣớng phải quy định chung
chung mang tính định tính này.ư Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã khắc phục hạn chế này bằng quy định mới mang tính định lượng rõ ràng hơn, tuy nhiên, vẫn đồng thời ghi nhận yếu tố “với quy mô thương mại” trong cấu thành cơ bản của tội phạm nhằm phù hợp với các cam kết quốc tế và việc giải thích khái niệm này sẽ tiếp tục là một thách thức trong thời gian tới….
Tóm lại, về cơ bản, pháp luật về quyền sở hữu tư nhân đã thể chế hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định của Hiến pháp năm 2013, cơ bản đảm bảo sự bao quát, tạo lập khuôn khổ pháp lý quan trọng cho sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đặt ra:
(1) Còn tồn tại nhiều quy định chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản luật cùng điều chỉnh một vấn đề hoặc quy định chƣa mạch lạc dẫn đến những cách hiểu, áp dụng pháp luật khác nhau, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc thi hành pháp luật trên thực tế.
(2) Hệ thống văn bản luật còn mang tính chất quy định khung, thiếu cụ thể,
nhiều quy định khó hoặc không thể áp dụng trực tiếp nếu không có các văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản dƣới luật vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong hệ thống văn bản QPPL. Điều này chưa thực sự phù hợp với yêu cầu đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và của các đạo luật trong Nhà nước pháp quyền. Đồng thời, việc văn bản luật cần có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành ít nhiều gây khó khăn cho việc đảm bảo tính thống nhất và tính pháp chế của pháp luật; dẫn đến tồn tại những quy định mang tính chất hạn chế quyền sở hữu trong các văn bản dưới luật. Có khoảng cách giữa tuyên bố chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp với việc thể chế hóa và thực thi trên thực tế. Thể chế pháp luật về sở hữu còn chậm chuyển biến,
đi sau lực lượng sản xuất và sự pháp triển của xã hội, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
(3) Quy định pháp luật và thực thi pháp luật về quyền tài sản đối với đất đai, tài nguyên thiên nhiên đã giao cho cá nhân, tổ chức còn chưa chặt chẽ; chưa khai thác được giá trị tài sản một cách tối ưu; có sự khác biệt trong cách tiếp cận về quyền sở hữu giữa Luật Đất đai, Luật Khoáng sản với BLDS, Luật Doanh nghiệp và các văn bản luật có liên quan.
(4) Bất động sản (đất đai, nhà ở, công trình xây dựng,..) được coi là tài sản lớn, có giá trị quan trọng trong phát triển nền kinh tế, tuy nhiên, thể chế pháp luật về quyền sở hữu đối với các loại tài sản này còn tồn tại những khoảng trống pháp lý.
(5) Thiếu vắng một số thiết chế pháp luật quan trọng như đăng ký tài sản;
(6) Thiết chế bảo đảm quyền sở hữu tài sản đã đƣợc quan tâm hoàn thiện nhưng chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả;
(7) Việc hiểu và áp dụng pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong một số trƣờng hợp còn chƣa chính xác hoặc quá cứng nhắc, thậm chí có thể “hành chính hóa” quan hệ tài sản. Điều này dẫn đến trên thực tế có thể vẫn có trường hợp quyền sở hữu tài sản chưa thực sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm.
Trích từ Dự thảo Đề án “Thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm quyền tài sản được giao dịch thông suốt, hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả” của Bộ Tư pháp
Rubi