Trangtinphapluat.com giới thiệu tới bạn đọc thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính từ ngày 01/7/2025 theo Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2025 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Hiện nay, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại Điều 37a của Luật XLVPHC, Nghị định số 189/2025/NĐ-CP và các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chuyên ngành. Các chức danh của chính quyền địa phương có thẩm quyền xử phạt gồm: Chủ tịch UBND cấp xã và cấp tỉnh; Giám đốc sở và các chức danh thuộc các Sở (như Đội trưởng Đội Quản lý thị trường thuộc Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương; Chi cục trưởng Chi cục về lĩnh vực lâm nghiệp, kiểm lâm thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường; Chi cục trưởng Chi cục về lĩnh vực thủy sản, kiểm ngư thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường; Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Sở Khoa học và Công nghệ; Chi cục trưởng Chi cục về lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y, quản lý chất lượng nông lâm, thủy sản, thủy lợi, đê điều, phòng, chống thiên tai thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường; Chi cục trưởng Chi cục An toàn thực phẩm, Chi cục trưởng Chi cục về lĩnh vực dân số, trẻ em thuộc Sở Y tế).

Về nguyên tắc, Chủ tịch UBND các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương. Trong khi đó, các chức danh thuộc các cơ quan còn lại có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý. Trong trường hợp thì việc xử phạt vi phạm hành chính do người thụ lý đầu tiên thực hiện.
Trường hợp vụ việc vi phạm hành chính có nhiều hành vi vi phạm thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo 03 nguyên tắc sau đây:
+ Thứ nhất, nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó.
+ Thứ hai, nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt.
+ Thứ ba, nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch UBND cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.
2. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Mục 1 Chương III Phần thứ hai của Luật XLVPHC. Căn cứ vào tính chất của thủ tục, có thể phân chia thủ tục xử phạt vi phạm hành chính thành 02 nhóm sau đây:
2.1. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản (thủ tục đơn giản)
Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản là thủ tục đơn giản, được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000 đồng đối với cá nhân, 1.000.000 đồng đối với tổ chức. Tuy nhiên, đối với hành vi vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ, mặc dù vụ việc có thể thuộc trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000 đồng đối với cá nhân, 1.000.000 đồng đối với tổ chức nhưng thủ tục xử phạt không lập biên bản không được áp dụng trong trường hợp này. Lý do, về nguyên tắc, thủ tục xử phạt không lập biên bản chỉ được áp dụng đối với các vụ việc vi phạm đơn giản, rõ ràng, không có tình tiết phức tạp nhằm bảo đảm hành vi vi phạm được xử lý nhanh chóng và tránh gây lãng phí thời gian cho người bị xử phạt và người có thẩm quyền xử phạt[1]. Tuy nhiên, phần lớn các vụ việc vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ khó đáp ứng tiêu chí đơn giản, rõ ràng nói trên. Sau khi có kết quả thu được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính vẫn cần thực hiện các bước để xác định tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính, thông báo bằng văn bản đến tổ chức, cá nhân vi phạm,… Do đó, việc xử phạt tại chỗ đối với hành vi vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ là không khả thi, không phù hợp.

Đối với vụ việc thuộc trường hợp xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản, sau khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ. Nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ phải bao gồm ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của cá nhân vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; chứng cứ và tình tiết liên quan đến việc giải quyết vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định xử phạt; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng và mức tiền phạt nếu hành vi vi phạm bị áp dụng hình thức phạt tiền.
2.2. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản (thủ tục thông thường)
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính không thuộc trường hợp được nêu trên. Thông thường, việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được thực hiện gồm các bước sau đây:
a) Lập biên bản vi phạm hành chính
Theo Điều 58 Luật XLVPHC, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính. Nếu vi phạm hành chính xảy ra trên biển, đường thủy nội địa hoặc tàu bay, tàu biển, phương tiện thủy nội địa, tàu hỏa, thì người có thẩm quyền hoặc chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu có trách nhiệm tổ chức lập biên bản và chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi tàu bay, tàu biển, phương tiện thủy nội địa, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga.
Biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi phát hiện vi phạm hành chính. Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc có phạm vi rộng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, thì biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi phát hiện vi phạm hành chính. Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc phải xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm, thì biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định được đối tượng vi phạm bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc nhận được kết quả xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm. Trường hợp một vụ việc có nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau, trong đó có hành vi được phát hiện bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc phải xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm, thì biên bản vi phạm hành chính được lập đối với các hành vi trong vụ việc đó trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định được đối tượng vi phạm bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc nhận được đầy đủ kết quả xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm.
Biên bản vi phạm hành chính lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính 01 bản; trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển kịp thời cho người có thẩm quyền xử phạt, trừ trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trên biển, đường thủy nội địa hoặc tàu bay, tàu biển, phương tiện thủy nội địa, tàu hỏa.
b) Xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính
Xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính được thực hiện trong trường hợp cần thiết khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc trong trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung theo quy định của Luật XLVPHC. Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính hoặc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh tình tiết của vụ việc, có thể tự mình hoặc phân công, phối hợp thực hiện xác minh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả xác minh. Mục đích của bước xác minh tình tiết vụ việc nhằm làm rõ các vấn đề như: (i) vi phạm hành chính xảy ra trên thực tế; (ii) chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, lỗi, nhân thân của cá nhân vi phạm; (iii) các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; (iv) tính chất, mức độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra; (v) các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc xem xét, quyết định xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt cũng có thể trưng cầu giám định theo quy định của pháp luật.
c) Giải trình
Giải trình được ghi nhận trong Luật XLVPHC với tư cách là một quyền của đối tượng vi phạm. Tuy nhiên, để tránh gây lãng phí thời gian cho đối tượng vi phạm và người có thẩm quyền xử lý vụ việc trong trường hợp không cần thiết, Luật XLVPHC chỉ quy định áp dụng thủ tục giải trình đối với hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng mà không áp dụng đối với tất cả mọi hành vi vi phạm. Cụ thể, theo Điều 61 Luật XLVPHC, đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc quy định mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
d) Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính mà bị xử phạt trong cùng một lần thì chỉ ra 01 quyết định xử phạt, trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính. Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức. Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm của từng cá nhân, tổ chức.

Thông thường, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, nếu vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với vụ việc mà đối tượng vi phạm có yêu cầu giải trình hoặc vụ việc phải xác minh các tình tiết liên quan thì trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt phải được ban hành. Đối với vụ việc mà đối tượng vi phạm có yêu cầu giải trình hoặc vụ việc phải xác minh các tình tiết liên quan mà có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải bao gồm các nội dung chính sau đây: địa danh, ngày, tháng, năm ra quyết định; căn cứ pháp lý để ban hành quyết định; biên bản vi phạm hành chính, kết quả xác minh, văn bản giải trình của đối tượng vi phạm hoặc biên bản họp giải trình và tài liệu khác (nếu có); họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ và họ tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm hành chính; tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; hình thức xử phạt chính; hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có); quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính; hiệu lực của quyết định, thời hạn và nơi thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nơi nộp tiền phạt; họ tên, chữ ký của người ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trách nhiệm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và việc cưỡng chế trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành.
3. Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
3.1. Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, đặc khu
Trưởng Công an cấp xã nơi người vi phạm cư trú hoặc nơi họ có hành vi vi phạm pháp luật tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã hoặc đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị dân cư ở cơ sở lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, đặc khu. Trong trường hợp người vi phạm do cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, đặc khu đối với người đó.
Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ; đối với người chưa thành niên thì còn phải thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo. Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ, cơ quan lập hồ sơ đề nghị gửi hồ sơ cho Chủ tịch UBND cấp xã.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức và chủ trì cuộc họp tư vấn với sự tham gia của Trưởng Công an cấp xã, công chức tư pháp – hộ tịch, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan, đại diện dân cư ở cơ sở. Người bị đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, đặc khu, người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên phải được mời tham gia cuộc họp và phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng biện pháp. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc cuộc họp tư vấn, Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, đặc khu. Tùy từng đối tượng mà Chủ tịch UBND cấp xã quyết định giao người được giáo dục cho cơ quan, tổ chức, gia đình quản lý, giáo dục; nếu đối tượng không có nơi cư trú ổn định thì giao cho cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục.
3.2. Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Đối với người dưới 18 tuổi vi phạm có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với người dưới 18 tuổi vi phạm không có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Trường hợp hồ sơ do cơ quan, đơn vị thuộc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý vụ vi phạm pháp luật, nhưng người vi phạm dưới 18 tuổi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, mà thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng thì cơ quan, đơn vị đang thụ lý vụ việc, vụ án hoàn thiện hồ sơ vi phạm và chuyển hồ sơ cho Công an cấp xã có thẩm quyền để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người đó.
Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, Công an cấp xã lập hồ sơ phải thông báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng, cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của họ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ, Trưởng Công an cấp xã quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân khu vực để quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
3.3. Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
Đối với người vi phạm có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Đối với người không cư trú tại nơi có hành vi vi phạm pháp luật thì Trưởng Công an cấp xã phải xác minh; trường hợp xác định được nơi cư trú thì có trách nhiệm chuyển người đó kèm theo biên bản vi phạm về địa phương để xử lý; trường hợp không xác định được nơi cư trú thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Trường hợp Trưởng cơ sở cai nghiện bắt buộc tiến hành lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc theo quy định tại khoản 3 Điều 118 của Luật XLVPHC thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản về hành vi vi phạm mới, Trưởng cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi hồ sơ cho Trưởng Công an cấp xã có thẩm quyền. Trường hợp người vi phạm do cơ quan, đơn vị thuộc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thì cơ quan, đơn vị đang thụ lý vụ việc, vụ án hoàn thiện hồ sơ vi phạm và chuyển hồ sơ cho Công an cấp xã có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với người đó.
Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, Công an cấp xã lập hồ sơ phải thông báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ, Trưởng Công an cấp xã quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân khu vực áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
3.4. Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Trường hợp người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp người nghiện ma túy do cơ quan, đơn vị thuộc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì cơ quan, đơn vị đang thụ lý vụ việc, vụ án hoàn thiện hồ sơ vi phạm và chuyển hồ sơ cho Công an cấp xã có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đó.

Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, Công an cấp xã lập hồ sơ phải thông báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ, Trưởng Công an cấp xã quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân khu vực áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4. Một số điểm mới của Luật số 88/2025/QH15 và Nghị định số 189/2025/NĐ-CP liên quan đến chính quyền địa phương 02 cấp
4.1. Về thẩm quyền xử phạt
Trước đây, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của chính quyền địa phương được quy định chủ yếu theo cấp hành chính (xã, huyện, tỉnh). Tuy nhiên, sau khi tổ chức lại chính quyền theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, Luật số 88/2025/QH15 và Nghị định số 189/2025/NĐ-CP đã có những điều chỉnh lớn về phân cấp, phân quyền và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể:
4.1.1. Tại Luật số 88/2025/QH15
Luật số 88/2025/QH15 bổ sung Điều 37a về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để quy định một cách khái quát, toàn diện các nhóm chức danh, hệ lực lượng có thẩm quyền xử phạt, đồng thời giao Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết thẩm quyền xử phạt, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả theo từng chức danh. Luật số 88/2025/QH15 cũng giao Chính phủ quy định (sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh thuộc các cơ quan, lực lượng được thành lập mới chưa được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k và l khoản 1 Điều 37a mà không do sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước. Song song với đó, Luật cũng bãi bỏ các quy định từ Điều 38 đến Điều 51 của Luật XLVPHC quy định về các chức danh cụ thể và thẩm quyền xử phạt gắn với từng chức danh. Việc sửa đổi này được thực hiện để phù hợp với bối cảnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, đồng thời bảo đảm tính linh hoạt trong phân cấp, phân quyền, đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý và hạn chế phát sinh khoảng trống pháp lý khi có sự điều chỉnh cơ cấu tổ chức hoặc chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính.
4.1.2. Tại Nghị định số 189/2025/NĐ-CP
Cụ thể hóa các quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k và l khoản 1 Điều 37a, Nghị định số 189/2025/NĐ-CP đã quy định chi tiết các chức danh có thẩm quyền xử phạt và thẩm quyền của từng chức danh, trong đó:
a) Mở rộng thẩm quyền xử phạt hành chính của các chức danh có thẩm quyền xử phạt
Thứ nhất, đối với Chủ tịch UBND cấp xã:
– Tăng mức phạt tiền tối đa mà Chủ tịch UBND cấp xã có thể ra quyết định. Theo đó, Chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền “phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật XLVPHC” (trước đây có thẩm quyền “phạt tiền đến 10% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 5.000.000 đồng”).
– Bổ sung thẩm quyền tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn (trước đây, Chủ tịch UBND cấp xã không có thẩm quyền này).
– Tăng thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính: Trước đây, Chủ tịch UBND cấp xã chỉ được tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt được quy định. Tuy nhiên, hiện nay, Chủ tịch UBND cấp xã được tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (không giới hạn thẩm quyền tịch thu theo giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính).
– Tăng thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Trước đây, Chủ tịch UBND cấp xã chỉ được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 1 Điều 28 của Luật XLVPHC. Tuy nhiên, hiện nay, Chủ tịch UBND cấp xã được áp dụng tất cả các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật XLVPHC.
Thứ hai, đối với Trưởng Công an cấp xã:
– Tăng mức phạt tiền tối đa của Trưởng Công an cấp xã. Theo đó, chức danh này có thẩm quyền “phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật XLVPHC” (trước đây có thẩm quyền “phạt tiền đến 5% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 2.500.000 đồng”).
– Bổ sung thẩm quyền tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn (trước đây, Trưởng Công an cấp xã không có thẩm này).
– Tăng thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính: Trước đây, Trưởng Công an cấp xã chỉ được tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt được quy định. Tuy nhiên, hiện nay, Trưởng Công an cấp xã được tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (không giới hạn thẩm quyền tịch thu theo giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính).
– Tăng thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Trước đây, Trưởng Công an cấp xã chỉ được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, c và đ khoản 1 Điều 28 của Luật XLVPHC. Tuy nhiên, hiện nay, Trưởng Công an cấp xã được áp dụng tất cả các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật XLVPHC.
b) Quy định thẩm quyền xử phạt cho Thủ trưởng cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo chuyên ngành, lĩnh vực
Quy định này để đáp ứng yêu cầu kịp thời xử lý vi phạm trong các lĩnh vực quản lý nhà nước trong bối cảnh sắp xếp lại hệ thống cơ quan thanh tra. Trước đây, Giám đốc sở không có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, hiện nay, Giám đốc sở có quyền: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 80% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật XLVPHC; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật XLVPHC.
4.2. Về thẩm quyền và thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Trước khi Luật số 88/2025/QH15 được ban hành, thẩm quyền quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thuộc Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội thuộc UBND cấp huyện. Trong khi đó, cơ quan Công an cấp xã là cơ quan giúp UBND cấp xã lập hồ sơ đề nghị để Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống Công an nhân dân được tổ chức theo mô hình 03 cấp, không còn cấp huyện; chính quyền địa phương cũng tổ chức theo mô hình 02 cấp, không tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện, đồng thời, nhiệm vụ quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy đã được chuyển giao từ cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội sang cơ quan Công an. Vì vậy, để bảo đảm phù hợp chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy và sự chuyển giao nhiệm vụ quản lý giữa các bộ, ngành như đã nêu trên, Luật số 88/2025/QH15 đã sửa đổi, bổ sung quy định của các điều 99, 100, 101, 102, 103, 104 và 110 Luật XLVPHC theo hướng trao thẩm quyền thực hiện một số công việc trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) cho Trưởng Công an cấp xã thay cho chức danh Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện như trước đây.
Bên cạnh đó, nhằm đẩy mạnh việc phân quyền cho cấp cơ sở, Luật số 88/2025/QH15 quy định thống nhất một chủ thể có thẩm quyền lập hồ sơ, quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) là Công an cấp xã. Theo đó, trong trường hợp người vi phạm do cơ quan, đơn vị thuộc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thì cơ quan, đơn vị đang thụ lý vụ việc hoàn thiện hồ sơ và chuyển cho Công an cấp xã có thẩm quyền để lập hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân áp dụng các biện pháp xử lý hành chính./.
[1] Đối với thủ tục xử phạt không lập biên bản, đối tượng vi phạm sẽ nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt. Nếu đối tượng vi phạm không có khả năng nộp tiền phạt tại chỗ thì phải nộp tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước.
Trích từ tài liệu tập huấn chính quyền 2 cấp của Bộ Tư pháp