Tình huống kỳ 30: Nhờ lập vi bằng để khởi kiện

(PL)- Kỳ này chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về chế định thừa phát lại (TPL) cũng như giá trị của vi bằng do TPL lập.

Thông qua giải đố tình huống này, bạn đọc sẽ tự trang bị thêm cho mình những hiểu biết và kiến thức pháp luật liên quan. Chúng ta hãy nhanh tay đi tìm lời giải.

Tình huống kỳ 30

Anh A và anh B là bạn hàng làm ăn lâu năm, trong một lần kẹt vốn anh A hỏi mượn anh B số tiền 100 triệu đồng. Vốn có sự tin tưởng nên anh B đã đồng ý cho anh A mượn tiền, đồng thời không tính lãi và thư thả đến khi nào anh A dư dả thì trả lại.

Lập vi bằng để khởi kiện tranh chấp dân sự
Lập vi bằng để khởi kiện tranh chấp dân sự

Tuy nhiên, một năm sau anh B gặp phải khó khăn nên nhiều lần yêu cầu nhưng anh A không trả. Viện cớ trước đây việc cho mượn không thỏa thuận thời hạn phải trả nên anh A cho rằng khi nào mình có tiền mới trả.

Hết cách, anh B đã làm văn bản thông báo yêu cầu anh A phải trả nợ trong vòng một tháng kể từ ngày nhận thông báo này. Đồng thời, anh B đến văn phòng TPL quận X nhờ lập vi bằng về việc gửi thông báo cho anh A. Mặc dù anh A không chịu nhận thông báo nhưng vi bằng của TPL đã ghi nhận đầy đủ về việc anh B đã gửi thông báo cho anh A. Vi bằng này được Sở Tư pháp cho đăng ký theo đúng quy định của pháp luật.

Tình huống kỳ 30: Nhờ lập vi bằng để khởi kiện - ảnh 1

Tình huống kỳ 30: Nhờ lập vi bằng để khởi kiện - ảnh 2

Tình huống kỳ 30: Nhờ lập vi bằng để khởi kiện - ảnh 3

Hết thời hạn trên nhưng anh A vẫn kiên quyết không chịu trả tiền, buộc lòng anh B phải khởi kiện anh A tại tòa án quận X, yêu cầu tòa buộc anh A phải trả cho mình 100 triệu đồng.

Tại tòa, anh A cho rằng việc tòa thụ lý đơn khởi kiện của anh B là sai. Bởi khi vay mượn cả hai người không thỏa thuận thời hạn thanh toán. Do vậy, chỉ với thông báo trả nợ và vi bằng của TPL kèm theo là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Việc tòa án thụ lý giải quyết vụ án là không đúng quy định pháp luật.

À Ra Thế xin nhờ bạn đọc tra cứu quy định pháp luật liên quan để xem thử tình huống tòa án thụ lý vụ kiện này có đúng không và đừng quên gửi kèm dự đoán số người có đáp án đúng nhé!

Bạn đọc tham gia dự thi bằng cách: Trả lời trực tiếp http://plo.vn/a-ra-the.html hoặc gửi đáp án về hộp thư arathe2016@phapluattp.vn hoặc gửi qua bưu điện: “À Ra Thế – báo Pháp Luật TP.HCM, 34 Hoàng Việt, phường 4, quận Tân Bình, TP.HCM”.

BAN TỔ CHỨC
Nguồn:plo.vn
TRANGTINPHAPLUAT.COM GỢI Ý TRẢ LỜI NHƯ SAU (MANG TÍNH THAM KHẢO)
Câu 1. Tòa án quận X thụ lý vụ án có đúng hay không? vì sao?

          Theo như tình huống thì B cho A vay tiền mà không thỏa thuận thời hạn trả, không tính lãi nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 469 Bộ luật Dân sự 2015 về thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn thì: “Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

        Anh B đã thực hiện đúng quy định trên, tức là đã gửi thông báo yêu cầu anh A phải trả nợ trong vòng một tháng kể từ ngày nhận thông báo này. Đồng thời, anh B đến văn phòng Thừa phát lại quận X nhờ lập vi bằng về việc gửi thông báo cho anh A. Và theo Điều 7 của Thông tư liên tịch 09/2014/TTLT-BTP -TANDTC-VKSNDTC-BTC của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội, thì Giá trị pháp lý của vi bằng được quy định như sau: “Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại để làm rõ tính xác thực của vi bằng”.

          Căn cứ vào Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì trường hợp của anh B không thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện vì đã đủ điều kiện khởi kiện (anh B đã thông báo cho anh A một tháng để trả nợ, có lập vi bằng để làm chứng cứ) và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 26 và 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó theo Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án quận X thụ lý giải quyết là đúng.

Đáp án kỳ 29: Dù vé số trúng thưởng cũng chỉ phạt hành chính

(PL)- Nếu tình huống chỉ dừng lại ở số tiền 300.000 đồng, chắc hầu hết bạn đọc đều có đáp án cho tình huống này. Nhưng cùng với hai tờ vé số trúng thưởng được 6 triệu đồng, nhiều bạn đọc đã “vội vã” kết luận A phải bị xử lý hình sự.

À Ra Thế lấy làm vui mừng khi số đông đáp án xác định hai tờ vé số dù sau đó trúng thưởng thì giá trị tài sản lúc A thực hiện hành vi trộm cắp vẫn chỉ là 300.000 đồng cùng với giá trị mua bán của hai tờ vé số.

Theo quy định tại Điều 138 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội trộm cắp tài sản thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải “từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng…”. Như vậy, khúc mắc của tình huống này chỉ nằm ở hai tờ vé số trúng thưởng. Nếu xác định giá trị của hai tờ vé số với giá trị mua bán (10.000 đồng/tờ) thì A chỉ bị xử phạt hành chính. Còn nếu xác định giá trị hai tờ vé số là giá trị được trả thưởng thì A bị xử lý về tội trộm cắp tài sản theo Điều 138 BLHS.

Điều 2 Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 2-3-2005 quy định về hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã nêu ra nguyên tắc định giá tài sản: “Phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm, trung thực, khách quan, công khai và kịp thời”. Điều này được hướng dẫn chi tiết ở khoản 1 mục 2 Thông tư 55/2006/TT-BTC: Giá thị trường của tài sản là giá mua, bán, giao dịch theo thỏa thuận của tài sản cùng loại hoặc tương đương trên thị trường trong điều kiện thương mại bình thường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm”.

Cạnh đó, khoản 4 Điều 13 Nghị định 26/2005 cũng nêu rõ căn cứ định giá tài sản chính là giá trị thực tế của tài sản cần định giá”.

Đối chiếu với tình huống, chúng ta thấy giá trị của hai tờ vé số trên thị trường trước khi mở xổ số là 10.000 đồng/tờ. Như vậy, tổng tài sản mà A chiếm đoạt là 320.000 đồng. Việc hai tờ vé số trúng thưởng sau đó không được xem là giá trị tài sản tại thời điểm bị xâm phạm. Do mức định lượng giá trị tài sản chưa phù hợp với cấu thành của tội trộm cắp tài sản nên A chỉ bị xử phạt hành chính trong trường hợp này. Theo đó, A sẽ bị phạt hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình với mức phạt tiền 1-2 triệu đồng.

Điểm d khoản 1 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính”. Như vậy, số tiền 300.000 đồng và hai tờ vé số là tài sản bị xâm phạm, không phải tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính nên phải được trả lại cho chủ sở hữu. Nguyên tắc này còn được quy định tại khoản 2 Điều 41 BLHS: “Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp”.

Bài giảng Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017

Từ những phân tích trên, đáp án À Ra Thế kỳ 29 là: A sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và cơ quan công an phải trả lại chị X số tiền trúng thưởng.

À Ra Thế xin chúc mừng những bạn đọc có đáp án trùng với đáp án trên. Vẫn với tinh thần “Không được giải cũng được luật”, xin mời bạn đọc tiếp tục nhanh tay tra luật để tham gia giải đố kỳ tiếp theo.

À Ra Thế sẽ công bố danh sách bảy bạn đọc xuất sắc nhất vào ngày thứ Hai (3-4).

BAN TỔ CHỨC
Nguồn:plo.vn

Tác giả Nguyễn Quốc Sử

Dịch vụ: Tư vấn pháp luật, bài giảng pháp luật, Tài liệu thi Công chức, Viên chức, thi nâng ngạch công chức... Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *