Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 có hiệu lực từ ngày 01/4/2025, thay thế cho Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020. Trangtinphapluat.com biên soạn, giới thiểu những điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020.
Trong bài viết này, trangtinphapluat.com giới thiệu những điểm mới về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, hiệu lực và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
1. Định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội
Luật Ban hành văn bản QPPL 2025 đã bổ sung quy định về định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội, theo đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì, phối hợp với Chính phủ xây dựng Định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội, hoàn thành trước ngày 01 tháng 9 của năm đầu tiên nhiệm kỳ Quốc hội, để trình cơ quan có thẩm quyền của Đảng phê duyệt.

Căn cứ xây dựng Định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội bao gồm:
+ Chủ trương, đường lối của Đảng, các định hướng, kết luận của cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước;
+ Kết quả thực hiện Định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội nhiệm kỳ trước, yêu cầu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật;
+ Vấn đề mới, xu hướng mới cần có pháp luật điều chỉnh;
+ Yêu cầu giải quyết vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn.
2. Bổ sung quy định về xây dựng chính sách
Luật Ban hành văn bản QPPL 2025 tại khoản 1 Điều 27 quy định Cơ quan trình có trách nhiệm tổ chức thực hiện quy trình xây dựng chính sách trước khi soạn thảo trong các trường hợp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật sau đây:
+ Luật, pháp lệnh mới; luật, pháp lệnh thay thế các luật, pháp lệnh hiện hành;
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật có nội dung hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp;
+ Nghị quyết thí điểm của Quốc hội.
3. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Luật Ban hành văn bản QPPL 2015, sửa đổi 2020 chia hiệu lực của văn bản làm 3 loại: Văn bản trung ương thì có hiệu lực không sớm hơn 45 ngày, tỉnh không sớm hơn 10 ngày, huyện và xã không sớm hơn 7 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.

Luật 2025 chia hiệu lực văn bản thành 2 loại là trung ương và địa phương: Văn bản trung ương có hiệu không sớm hơn 45 ngày, không sớm hơn 10 ngày đối với văn bản của chính quyền địa phương (cấp tỉnh, huyện) kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.
Luật Ban hành văn bản QPPL 2025 kế thừa Luật 2015 về hiệu lực của văn bản trong trường hợp ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn, đồng thời bổ sung trong trường hợp đặc biệt thì văn bản quy phạm pháp luật có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.
Văn bản quy định chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản giao quy định chi tiết hoặc thời điểm có hiệu lực của nội dung được giao quy định chi tiết.
4,Hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật
+ Trước đây, Luật 2015, sửa đổi 2020 quy định chỉ văn bản trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước. Tuy nhiên, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 thì mở rộng thêm văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND cấp tỉnh cũng được quy định hiệu lực trở về trước.
Đề cương tuyên truyền Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025
Theo đó, tại khoản 1 Điều 55 quy định: “1. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội thì văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mới được quy định hiệu lực trở về trước.”
+ Cả Luật 2015 và Luật 2025 đều quy định Văn bản quy phạm pháp luật không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:
– Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
– Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
5. Văn bản QPPL hết hiệu lực thì văn bản chi tiết vẫn còn hiệu lực
Luật 2015 tại khoản 4 Điều 154 quy định : “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”
Luật ban hành văn bản QPPL 2025 đã sửa đổi quy định trên, theo đó: Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần do có văn bản quy phạm pháp luật khác thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung thì văn bản quy định chi tiết, quy định biện pháp cụ thể để tổ chức, hướng dẫn thi hành văn bản đó tiếp tục có hiệu lực trong trường hợp không trái với văn bản quy phạm pháp luật thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung, trừ trường hợp được công bố hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần. Văn bản công bố phải được đăng tải trên công báo điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật (khoản 2 Điều 57)
6Giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 bên cạnh kế thừa các quy định của Luật hiện hành về giải thích HIến pháp, luật, nghị quyết, cũng đã bổ sung thêm trường hợp giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh đó là “chưa thống nhất việc áp dụng các văn bản” và bổ sung thêm các nguyên tắc, thứ tự khi giải thích, cụ thể Điều 60 quy định

“1. Việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết không được làm thay đổi nội dung quy định được giải thích và được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Có cách hiểu khác nhau về quy định của văn bản;
b) Chưa thống nhất việc áp dụng các văn bản.
2. Việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết phải bảo đảm thực hiện theo thứ tự các nguyên tắc, tiêu chí sau đây:
a) Phù hợp với nghĩa phổ thông của từ ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật đó;
b) Căn cứ vào quá trình xây dựng nội dung liên quan đến quy định cần giải thích;
c) Phù hợp với quan điểm chỉ đạo, mục đích, tinh thần ban hành văn bản;
d) Bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật”
7. Hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
Đây là quy định mới của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2025 theo đó trừ các văn bản do Quốc hội và UBTV Quốc hội ban hành thì các văn bản QPPL từ trung ương đến địa phương mà có nội dung chưa rõ, chưa thực hiện được hoặc còn cách hiểu khác nhau thì cơ quan đã ban hành văn bản có quyền ban hành văn bản hành chính để hướng dẫn, cụ thể tại Điều 61 quy định:
“1. Hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện đối với văn bản quy phạm pháp luật trừ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật xem xét, hướng dẫn áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành bằng văn bản hành chính, trên cơ sở đề nghị của cơ quan, kiến nghị của tổ chức, cá nhân. Trường hợp cần thiết, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quản lý ngành, lĩnh vực; Hội đồng nhân dân giao Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành văn bản hành chính để hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành.
2. Việc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo các trường hợp, nguyên tắc, tiêu chí quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 60 của Luật này và không được làm thay đổi nội dung quy định được hướng dẫn, không được đặt ra quy định mới. Văn bản hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng tải trên cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành văn bản hướng dẫn”
Rubi