Theo báo cáo số 269/BC – BTP ngày 22/9/2016 của Bộ Tư pháp về tổng hợp tiếp thu và giải trình dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 thì, Bộ Tư pháp dự kiến tiếp thu và giải trình các nội dung sửa đổi Bộ luật hình sự 2015 như sau:
1. NHỮNG NỘI DUNG DỰ KIẾN TIẾP THU
Về phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015
Trong quá trình xin ý kiến đối với dự thảo Luật, có hai loại ý kiến khác nhau về phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, về nguyên tắc, những quy định của BLHS năm 2015 phát hiện là có sai sót, chưa hợp lý thì cần phải được khắc phục. Tuy nhiên, với phạm vi của một Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS và để bảo đảm tiến độ trình Quốc hội dự án Luật này vào kỳ họp thứ hai (tháng 10/2016), thì chúng ta không thể sửa đổi được hết tất cả các nội dung vấn đề đã phát hiện mà chỉ có thể sửa đổi ở mức tối đa những điều khoản của BLHS năm 2015 có sai sót về kỹ thuật hoặc chưa hợp lý mà nếu không sửa thì không bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bởi lẽ, những điểm chưa hợp lý được phát hiện không chỉ liên quan thuần túy đến kỹ thuật thể hiện mà cả nội dung chính sách hình sự được quy định trong điều luật cụ thể cũng như liên quan đến vấn đề lý luận phức tạp còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, dự thảo Luật nên tập trung sửa đổi, bổ sung những điều khoản của BLHS năm 2015 có sai sót về kỹ thuật hoặc chưa hợp lý mà đã đạt được sự đồng thuận của liên ngành nhằm góp phần bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật cũng như đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, không ảnh hưởng đến những chính sách lớn đã được Quốc hội khóa XIII thông qua. Còn đối với một số quy định khác của Bộ luật tuy đã được phát hiện có điểm chưa hợp lý nhưng liên quan đến chính sách mới hoặc liên quan đến vấn đề lý luận mà còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất được hoặc nếu sửa đổi, bổ sung sẽ dẫn đến phải sửa đổi, bổ sung các Luật đang lùi hiệu lực thi hành cùng BLHS năm 2015 thì chưa nên đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung lần này mà cần được tiếp tục nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và thấu đáo hơn để có phương án sửa đổi phù hợp.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, không nên quá lệ thuộc vào thời hạn trình dự án Luật này mà hạn chế phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015. Tinh thần chung là cần phải sửa đổi triệt để, toàn diện, theo đó, ngoài những điều khoản có sai sót, chưa hợp lý đã được phát hiện cần tiếp tục rà soát BLHS năm 2015 và nếu phát hiện thêm thì cần phải sửa đổi, bổ sung.
Tiếp thu loại ý kiến thứ nhất, Bộ Tư pháp thấy rằng, để bảo đảm được tiến độ trình dự án Luật và cơ bản khắc phục được những sai sót về kỹ thuật trong BLHS năm 2015, trên cơ sở đạt được sự đồng thuận của liên ngành nhằm góp phần bảo đảm áp dụng thống nhất BLHS, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, bảo đảm ổn định nhiều quy định mang tính nhân đạo, hướng thiện của BLHS năm 2015 hiện vẫn đang được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/06/2016 của Quốc hội khóa XIII. Tuy nhiên, phương án theo loại ý kiến này chưa thể khắc phục được một cách toàn diện, triệt để tất cả những nội dung đã phát hiện là có sai sót, chưa hợp lý, nhất là những nội dung có liên quan đến chính sách mới hoặc liên quan đến vấn đề lý luận hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự thay đổi về quan niệm, về nhận thức mà còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất được (ví dụ như các vấn đề liên quan đến tính toàn diện và đồng bộ trong các quy định của BLHS về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội; tính đồng bộ, nhất quán trong việc cụ thể hóa các yếu tố mang tính định tính trong các cấu thành tội phạm của BLHS năm 1999, nhất là việc quy định các mức định lượng về tổn hại sức khỏe, về hậu quả đối với các tội phạm về kinh tế, môi trường; xem xét việc bổ sung tội danh mới; ….). Theo đó, nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến 141 điều của BLHS năm 2015.
Đối với loại ý kiến thứ hai, mặc dù phương án này hướng tới việc khắc phục toàn diện, triệt để tất cả những quy định của BLHS năm 2015 được phát hiện là có sai sót, chưa hợp lý nhằm bảo đảm cho BLHS khi có hiệu lực sẽ áp dụng thống nhất trong thực tiễn và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, để làm được điều này thì cần phải có thời gian, bởi lẽ, trong số những quy định của BLHS năm 2015 được phát hiện là có sai sót, chưa hợp lý thì có một số vấn đề hết sức phức tạp về mặt lý luận cũng như đòi hỏi phải có sự thay đổi về quan niệm, về nhận thức như đã nêu trên nên ý kiến rất khác nhau, chưa thống nhất được. Do vậy, cần phải có thời gian nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo để có phương án xử lý phù hợp. Hơn nữa, trong số các vấn đề được phát hiện, có một số vấn đề liên quan đến chính sách mới trong BLHS năm 2015 chưa được thực tiễn kiểm nghiệm nên rất khó đánh giá về tính hiệu lực, hiệu quả cũng như tính khả thi của chính sách. Ngoài ra, nếu theo hướng này thì nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 có thể vượt ra ngoài phạm vi của một Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS trong khi Bộ luật chưa có hiệu lực thi hành, đồng thời, có thể dẫn đến việc sửa đổi, bổ sung các luật đang lùi hiệu lực thi hành cùng BLHS năm 2015.
Bổ sung khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 liên quan đến phạm vi chịu TNHS của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
Tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành cho thấy hiện có hai loại ý kiến khác nhau. Cụ thể:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, quy định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 có một phần mở rộng phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, theo đó, các em phải chịu trách nhiệm hình sự cả đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng thuộc 03 tội danh: (1) cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; (2) hiếp dâm; (3) bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Do vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 theo hướng người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như tinh thần quy định của BLHS năm 1999 nhưng trong phạm vi những tội danh cụ thể được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015.
Theo loại ý kiến thứ hai thì đây là chính sách mới, được Quốc hội khóa XIII thông qua, vì vậy, không nên đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung quy định này.
Tiếp thu loại ý kiến thứ nhất, Bộ Tư pháp nhận thấy, về cơ bản khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 đã kế thừa chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội được ghi nhận trong BLHS năm 1999, đồng thời, cụ thể hóa thêm một bước theo hướng thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với đối tượng này. Tuy nhiên, có 03 trường hợp mở rộng hơn phạm vi trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi so với quy định của BLHS năm 1999, theo đó đối tượng này phải chịu trách nhiệm hình sự cả đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng thuộc 03 tội danh: (1) cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; (2) hiếp dâm; (3) bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, nhìn trong tổng thể chính sách xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì quy định này chưa thể hiện nhất quán chủ trương nhân đạo hóa trong chính sách hình sự đối với đối tượng này. Dự thảo Luật được thể hiện theo hướng này. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các tội danh cụ thể được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015.
Về việc bổ sung chất ma túy, cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện vào BLHS năm 2015
Trong quá trình xin ý kiến đối với dự thảo Luật, các ý kiến đều thống nhất cao về việc bổ sung các chất ma túy, cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện ở nước ta vào BLHS năm 2015 để có cơ sở xử lý. Tuy nhiên, về phương án bổ sung thì còn có ý kiến khác nhau.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trước mắt chỉ nên bổ sung những chất ma túy mà chúng ta đã biết rõ tên, nguồn gốc. Đó là chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ) và lá KHAT – một loại lá đã xuất hiện ở nước ta. Còn những cây khác có chứa chất ma túy mà chúng ta chưa biết được thì chưa nên bổ sung vào BLHS. Trên tinh thần đó, không nên có quy định quét “cây khác có chứa chất ma túy” trong các điều luật của BLHS quy định các tội phạm về ma túy.
Theo loại ý kiến thứ hai thì ngoài việc bổ sung các cây, lá cụ thể mới xuất hiện trong thời gian gần đây thì cũng cần bổ sung thêm quy định mang tính dự báo là “cây khác có chứa chất ma túy” để tạo điều kiện linh hoạt, thuận lợi trong việc xử lý tội phạm khi phát hiện một loại cây mới có chứa chất ma túy mà không cần phải sửa đổi, bổ sung BLHS.
Tiếp thu loại ý kiến thứ nhất, Bộ Tư pháp cho rằng, chính sách xử lý hình sự đối với các tội phạm về ma túy là rất nghiêm khắc, vì vậy, việc bổ sung chất ma túy nào, cây nào có chứa chất ma túy vào BLHS cần phải được cân nhắc hết sức thận trọng. Theo BLHS năm 1999 cũng như BLHS năm 2015 (các Điều 248 – 252) thì ngoài các chất ma túy, BLHS chỉ xử lý hình sự hình đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt “lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cô ca” chứ không phải bất kỳ cây nào có chứa chất ma túy. Do vậy, trước mắt, chỉ nên bổ sung chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ) vì đây là chất ma túy thuộc Danh mục II[1] (là chất ma túy được dùng hạn chế) và lá KHAT – một loại lá mới xuất hiện ở nước ta và có chứa chất ma túy Cathinone thuộc Danh mục I[2] (là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và trong đời sống). Còn những cây khác có chứa chất ma túy mà chúng ta chưa biết được thì chưa nên bổ sung vào BLHS. Nếu sau này xuất hiện các cây này ở nước ta thì có thể vận dụng các biện pháp xử lý khác đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các cây này, đồng thời, tiến hành phân tích, kiểm nghiệm để có kết luận cụ thể và nếu cần thì sẽ đề xuất bổ sung vào BLHS. Nếu bổ sung vào BLHS quy định quét “cây khác có chứa chất ma túy” thì dễ có nguy cơ bị lợi dụng, xử lý không đúng. Dự thảo Luật bổ sung các chất này tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS năm 2015.
Bổ sung quy định liên quan đến vấn đề xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự (các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS năm 2015)
Về nội dung này, ý kiến các Bộ, ngành trong đó có ý kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng còn có ý kiến khác nhau. Cụ thể:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, hiện nay trong thực tiễn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đang có cách hiểu khác nhau, không thống nhất được về vấn đề xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy quy định trong BLHS làm cơ sở cho việc xử lý hình sự. Do vậy, để tạo thuận lợi cho việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn và góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân thì cần bổ sung quy định về vấn đề này vào các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS năm 2015. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi trên thực tế thì trước mắt nên quy định theo hướng cần phải xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy quy định tại khoản của điều luật có quy định hình phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Theo loại ý kiến thứ hai thì để đảm bảo sự nhất quán và công bằng trong chính sách xử lý các trường hợp phạm tội về ma túy thì cần bổ sung quy định về việc không xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy trong các tội về ma túy.
Tiếp thu loại ý kiến thứ nhất, Bộ Tư pháp thấy rằng, việc bổ sung vào BLHS nội dung quy định về xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự là cần thiết, nhằm khắc phục cách hiểu chưa thống nhất về vấn đề này trong các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng quy định này đến đâu là vấn đề cần được cân nhắc hết sức thận trọng trên tinh thần bảo đảm sự hài hòa giữa yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, đồng thời, phải tính đến khả năng thực tế thực hiện giám định hàm lượng chất ma túy ở nước ta nhằm bảo đảm tính khả thi của quy định này. Mặc dù phương án này chưa bảo đảm được sự công bằng tuyệt đối trong các trường hợp phạm tội về ma túy nhưng ở một chừng mực nhất định nó thể hiện tinh thần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong trường hợp người phạm tội có khả năng bị áp dụng khung hình phạt cao (tù 20 năm hoặc tù chung thân, thậm chí là tử hình). Nhưng trong bối cảnh chúng ta chưa có khả năng thực tế để thực hiện giám định hàm lượng chất ma túy đối với tất cả các vụ án về ma túy thì ít nhất cũng cần cân nhắc lựa chọn phương án xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự đối với trường hợp phạm tội ma túy đặc biệt nghiêm trọng (tức là khoản 4 các Điều 248 – 252 của BLHS năm 2015). Do vậy, dự thảo Luật đã thể hiện theo loại ý kiến này.
Về việc sửa đổi, bổ sung Điều 292 của BLHS năm 2015 về tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông
Quá trình lấy ý kiến về vấn đề này cũng còn có những quan điểm khác nhau.
Phần lớn các ý kiến đề nghị loại bỏ tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông quy định tại Điều 292 của BLHS năm 2015 vì cho rằng, BLHS đã bỏ tội kinh doanh trái phép nhưng Điều 292 lại quy định tội “kinh doanh trái phép trên mạng” là không phù hợp. Hơn nữa, trong danh mục các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện có đến 267 ngành, nghề nhưng Điều 292 chỉ quy định xử lý hình sự đối với một số ít ngành, nghề trong số đó là có sự bất bình đẳng. Ngoài ra, quy định này gây ảnh hướng đến chủ trương khuyến khích và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta.
Theo loại ý kiến thứ hai thì hiện nay kinh doanh trên mạng đang có xu hướng phát triển. Việc BLHS năm 2015 quy định tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông là nhằm góp phần tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh trên mạng; bảo vệ những người làm ăn chân chính, đúng pháp luật, xử lý nghiêm những người cố tình vi phạm pháp luật và thu lợi bất chính lớn từ việc vi phạm đó; góp phần tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, quy định của Điều 292 của BLHS năm 2015 có phạm vi tương đối rộng và các từ ngữ sử dụng trong điều luật chưa thật sự phù hợp với các quy định liên quan của pháp luật chuyên ngành. Do vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung theo hướng thu hẹp một cách hợp lý cấu thành của tội phạm này, đồng thời điều chỉnh các quy định cụ thể có liên quan trong điều luật cho phù hợp.
Tiếp thu loại ý kiến thứ nhất, Bộ Tư pháp cho rằng, tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 292) là một trong 10 tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông được quy định tại mục 2 thuộc chương XXI của BLHS năm 2015 có khách thể xâm hại là an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Tuy nhiên, thực chất đây là cấu thành tội “kinh doanh trái phép” trên môi trường mạng và xét về bản chất thì đây là một tội phạm về kinh tế nhưng lại được đặt ở chương “các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”. Xét trong bối cảnh tội kinh doanh trái phép trong BLHS năm 1999 đã được bãi bỏ thì cũng nên xem xét bãi bỏ Điều 292 của BLHS năm 2015. Do vậy, dự thảo Luật thiết kế theo hướng bỏ tội danh này.
Sửa đổi, bổ sung mức định lượng trong các khung của một số điều luật nhằm bảo đảm sự nối tiếp giữa các mức định lượng trong các khung, tránh chồng chéo, trùng lặp, gây khó khăn cho việc xử lý tội phạm
Dự thảo Luật đã điều chỉnh mức định lượng tại các khoản của 61 điều luật của BLHS năm 2015, trong đó, có 49 điều liên quan đến mức định lượng về tỷ lệ thương tích, tổn hại cho sức khỏe[3] và 12 điều luật liên quan đến các mức định lượng khác[4] thuộc cấu thành một số tội phạm về kinh tế, môi trường, ma túy, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và một số tội khác. Đặc biệt, dự thảo Luật đã điều chỉnh mức định lượng về khối lượng, thể tích các chất ma túy tại các khoản của các điều luật để tránh trùng lặp và phù hợp với thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử từ trước đến nay, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.
Sửa đổi, bổ sung mức hình phạt trong các khung của một số điều luật để bảo đảm sự phân hóa rõ, hợp lý mức độ trách nhiệm giữa các trường hợp phạm tội khác nhau
Dự thảo Luật đã điều chỉnh mức phạt trong các khung hình phạt của 12 điều luật[5] liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm an toàn giao thông và trật tự công cộng nhằm bảo đảm phân hóa chính sách xử lý đối với từng trường hợp phạm tội, nhất là giữa trường hợp phạm tội đã gây ra hậu quả với trường hợp phạm tội có khả năng gây ra hậu quả[6].
Sửa đổi, bổ sung yếu tố cấu thành của một số tội phạm để bảo đảm phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
Dự thảo Luật đã có những sửa đổi, bổ sung liên quan đến cấu thành của một số tội phạm quy định tại 44 điều luật của BLHS năm 2015[7] để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cụ thể:
– Bổ sung hành vi “cướp phá tài sản” vào cấu thành tội bạo loạn (Điều 112) để xử lý đối với hành vi phạm tội này mà theo BLHS năm 1999 thì đây là hành vi cấu thành tội hoạt động phỉ.
– Bổ sung yếu tố “bỏ trốn” vào cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) như quy định của BLHS năm 1999, tạo thêm cơ sở pháp lý để ngăn chặn sớm việc người phạm tội bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản, gây khó khăn cho việc xử lý vụ án, nhất là vấn đề hoàn trả tài sản cho người bị hại.
– Bổ sung phương án quy định riêng về đối tượng hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu hoặc pháo các loại vào Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm) và Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm) của BLHS năm 2015.
– Sửa đổi, bổ sung cấu thành giảm nhẹ của một số tội phạm[8] theo hướng giới hạn phạm vi xử lý hình sự đối với trường hợp phạm tội có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả, theo đó, chỉ xử lý hình sự đối với trường hợp phạm tội có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại khoản 3 của điều này (tức là hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng).
– Bổ sung tình tiết tăng nặng đối với một số tội phạm[9].
– Bổ sung thêm các hành vi chiếm đoạt, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước vào cấu thành tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (Điều 337) để bao quát hết hành vi phạm tội và phù hợp với tên tội danh.
– Sửa đổi, bổ sung cấu thành của tội vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản (Điều 344) cho phù hợp hơn với thực tiễn.
– Bỏ yếu tố “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” trong cấu thành tội đào nhiệm (Điều 363) nhằm hạn chế phạm vi xử lý hình sự về tội này.
– Bổ sung vào cấu thành tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù (Điều 378), tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử (Điều 386) và tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù (Điều 387) thêm đối tượng bị xâm hại là “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” cho đầy đủ và phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; bổ sung vào cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ (Điều 410) yếu tố “gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đồng trở lên”.
– Sửa đổi, bổ sung cấu thành tội tội vi phạm quy định về giam giữ (Điều 388) theo hướng bỏ hành vi “tổ chức sử dụng chất ma túy” và cụ thể hóa hành vi “cưỡng đoạt tài sản” cho phù hợp hơn.
Sửa đổi, bổ sung 18 điều khoản thuộc Phần Những quy định chung của BLHS năm 2015 để bảo đảm sự nhất quán trong chính sách xử lý; bảo đảm tính bao quát, toàn diện và phù hợp hơn với thực tiễn.
9.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
– Sửa đổi, bổ sung Điều 92 của BLHS năm 2015 theo hướng bổ sung điều kiện để quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng, theo đó, ngoài điều kiện phải có sự đồng ý của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ thì còn phải có thêm điều kiện là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý việc áp dụng biện pháp này và có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự để bảo đảm tính khả thi của việc áp dụng biện pháp này. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Điều 92, dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung Điều 94 để khẳng định rõ biện pháp hòa giải tại cộng đồng được thực hiện sau khi có quyết định miễn trách nhiệm hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền.
– Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 107 của BLHS năm 2015 về xóa án tích đối với người chưa thành niên bị kết án theo hướng quy định thời gian tính để đương nhiên được xóa án tích căn cứ vào mức hình phạt đã tuyên và ngắn hơn so với người đã thành niên để có sự phân hóa đối với từng trường hợp phạm tội và bảo đảm tính nhất quán và đồng bộ trong cách quy định thời hạn xóa án tích đối với người bị kết án đã thành niên (khoản 2 Điều 70 BLHS) và người bị kết án chưa thành niên.
9.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLHS năm 2015 liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế
– Bổ sung nội dung quy định về phân loại tội phạm, đồng phạm, phạm tội có tổ chức, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội vào một số điều của BLHS năm 2015 (các Điều 9, 17, 27, 29 và 53 của BLHS năm 2015).
– Bổ sung vào Điều 86 của BLHS năm 2015 nội dung quy định về việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội, trong đó có hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn cũng như trường hợp các hình phạt đã tuyên đều là đình chỉ hoạt động có thời hạn về cùng một lĩnh vực để bảo đảm bao quát các trường hợp, tạo thuận lợi cho việc áp dụng quy định này trên thực tế.
– Bổ sung vào Điều 89 của BLHS năm 2015 nội dung quy định về xóa án tích cho pháp nhân thương mại bị phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực, theo đó, pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 05 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
Cùng với các nội dung sửa đổi, bổ sung nêu trên, dự thảo Luật cũng đã cụ thể hóa thêm nội dung viện dẫn các khoản trong các tội danh cụ thể mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự bằng từng tình tiết tăng nặng cụ thể trong các khoản tương ứng phù hợp với pháp nhân thương mại phạm tội.
9.3. Sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác thuộc phần Những quy định chung của BLHS năm 2015
– Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 14 của BLHS năm 2015 về chuẩn bị phạm tội theo hướng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời, bổ sung quy định xử lý hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả quy định tại Điều 207 của BLHS năm 2015.
– Sửa đổi, bổ sung Điều 54 của BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo hướng trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nhằm tạo linh hoạt trong việc áp dụng quy định này trong từng trường hợp cụ thể, đồng thời phù hợp với thực tiễn.
Ngoài ra, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về viện dẫn, các từ ngữ dùng trong điều luật tại 41 điều khoản của BLHS năm 2015[10] nhằm bảo đảm tính chính xác, logic, rõ ràng, tạo thuận lợi cho việc giải thích và áp dụng các quy định này của BLHS trong thực tiễn.
2. NHỮNG NỘI DUNG DỰ KIẾN GIẢI TRÌNH
Ngoài những đề xuất sửa đổi, bổ sung mà Cơ quan chủ trì soạn thảo dự kiến tiếp thu như đã nêu ở Mục 1, các bộ, ngành còn có nhiều ý kiến khác. Đây là các ý kiến mà trong quá trình thảo luận chưa có sự thống nhất cao; có liên quan đến những chính sách lớn đã được cấp có thẩm quyền cho ý kiến và đã được Quốc hội khóa 13 thông qua, chưa được kiểm nghiệm trên thực tế nên chưa có cơ sở để đề xuất sửa đổi, bổ sung lần này. Do đó, Bộ Tư pháp đề nghị được giữ nguyên như quy định của BLHS năm 2015 (xem phụ lục kèm theo). Cụ thể:
Về một số đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc Phần thứ nhất của BLHS
– Một số ý kiến đề nghị sửa đổi bổ sung các quy định liên quan đến vấn đề xử lý TNHS đối với pháp nhân thương mại phạm tội như: đề nghị sửa đổi nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại (Điều 3); quy định cụ thể lỗi của pháp nhân thương mại khi thực hiện tội phạm; áp dụng hình phạt tịch thu tài sản đối với pháp nhân thương mại phạm tội; bổ sung thêm một số tội phạm ngoài 31 tội đã được quy định trong BLHS 2015; Đề nghị cân nhắc làm rõ về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trên cơ sở thống nhất với quy định tại Điều 8 về khái niệm tội phạm, Điều 10 về cố ý phạm tội và Điều 11 về vô ý phạm tội. Theo đó, hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại được xác định trên cơ sở hành vi phạm tội của người thuộc pháp nhân thương mại đó. Đây là nguyên tắc phải xác định rõ làm căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử của Tòa án (liên quan đến việc áp dụng các khoản trong từng điều luật có liên quan thuộc phần tội phạm cụ thể). Đồng thời, hành vi phạm tội đó phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật hình sự năm 2015; Cân nhắc quy định về điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại …Đây là các đề xuất hoặc đã được quy định cụ thể, hoặc là những vấn đề mới, những vấn đề đã được thảo luận kỹ, đã báo cáo xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền, nên đề nghị giữ nguyên như quy định của BLHS năm 2015.
– Một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: (i) Cân nhắc bỏ cụm từ “do cố ý hoặc” tại Khoản 1 Điều 12, vì quy định như vậy là mở rộng phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi so với Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015; (ii) – Đề nghị bỏ Khoản 3 quy định về người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều 14 BLHS 2015 thì phải chịu trách nhiệm hình sự, bảo đảm phù hợp với nội dung kiến nghị sửa đổi khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015; (iii) đề nghị cân nhắc điều kiện miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội thay vào đó là biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải có ý kiến đồng ý của người chưa thành niên phạm tội là không phù hợp với bản chất của trách nhiệm hình sự là quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội…Bộ Tư pháp nhận thấy, đây là vấn đề mới, đã được thảo luận kỹ trong quá trình xây dựng và chỉnh lý dự thảo BLHS (sửa đổi) và đã được Quốc hội thông qua, nên đề nghị giữ nguyên.
– Về một số đề nghị khác có liên quan thuộc phần chung như: (i) Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”; (ii) Đề nghị sửa lại theo hướng người bào chữa chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia; (iii) BLHS năm 2015 đã tách để quy định thành 02 tình tiết giảm nhẹ: “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” (điểm s khoản 1) là không phù hợp. Để tránh áp dụng tùy tiện, cần giữ như tinh thần của BLHS năm 1999, theo đó không coi “ăn năn hối cải” là một tình tiết giảm nhẹ độc lập, bởi đây chỉ là thái độ, trạng thái tâm lý, không thể hiện hành vi, hoạt động cụ thể của người phạm tội mà cần phải gắn liền với “thành khẩn khai báo” mới đủ yếu tố trở thành tình tiết giảm nhẹ. Do vậy, đề nghị sửa đổi thành “Người phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải” để bảo đảm thể hiện rõ sự thay đổi tích cực, hướng thiện của người phạm tội mới có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Đề nghị sửa điểm b khoản 1 Điều 51 như sau: b) Người phạm tội hoặc người khác tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.”… Bộ Tư pháp nhận thấy, đây là những đề xuất đã được thảo luận trong quá trình xây dựng dự thảo và đã được Quốc hội thông qua, nên đề nghị giữ nguyên như quy định của BLHS năm 2015.
Về một số đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc Phần các tội phạm cụ thể
Ngoài các ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc phần các tội phạm cụ thể đã được Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu, thể hiện trong dự thảo Luật, trong quá trình xin ý kiến, còn có một số đề nghị sửa đổi, bổ sung khác mà cơ quan chủ trì đã nghiên cứu nghiêm túc, thận trọng nhưng đề nghị chưa tiếp thu trong dự thảo Luật sửa đổi lần này. Các đề xuất này nằm rải rác ở nhiều điều luật, ví dụ như:
– Đề nghị bổ sung cả hành vi “phá hủy tài sản” vào Điều 113 BLHS năm 2015 quy định về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân để phù hợp với Luật phòng, chống khủng bố năm 2013, tương thích với các điều ước quốc tế về phòng, chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với diễn biến của khủng bố trên thực tế và tạo thuận lợi, linh hoạt trong việc xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia (khi một đối tượng bị xử lý về tội phạm khủng bố thì ít có tổ chức, cá nhân nào công khai bênh vực; trong khi nếu bị xử lý về tội phạm khác thì có thể bị phản đối, can thiệp). (Bộ Công an);
– Đề nghị bỏ “a xít sunfuric” tại điểm b khoản 1; Đề nghị bỏ từ “nhẹ” tại điểm c khoản 1 Điều 134;
– Đề nghị bỏ đoạn “trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm”, tại Khoản 1 Điều 147. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
– Đề nghị thay cụm từ “chiếm giữ” tại khoản 1 Điều 153 bằng cụm từ “chiếm đoạt” (Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi);
– Quy định tại điểm d khoản 1 là quá rộng dẫn đến hình sự hóa quan hệ hành chính, cần quy định kèm theo các điều kiện chặt chẽ như đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về tội này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Đề nghị sửa thành “Cố ý xâm nhập trái phép chỗ ở của người khác mặc dù chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp đã ngăn cản hoặc cố tình không ra khỏi chỗ ở của người khác sau khi xâm nhập trái phép mặc dù chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp đã yêu cầu rời khỏi nơi đó”;
– Đề nghị bỏ điều 162. Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật, vì đây là quan hệ lao động, việc hình sự hóa là không cần thiết. Nếu chủ doanh nghiệp phải đi tù thì ai sẽ điều hành hoạt động của doanh nghiệp…
Nhìn chung, đây là các đề xuất tương đối chi tiết và đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, giải trình đầy đủ tại phụ lục kèm theo.
Về đề nghị bổ sung những tội phạm mới
3.1. Bộ Quốc phòng đề nghị bổ sung:
(i) Tội cập mạn mua bán, trao đổi, sang mạn trái phép hàng hóa trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam giữa người, phương tiện Việt Nam và người, phương tiện nước ngoài;
(ii) Đề nghị bổ sung các tình tiết định khung đối với hành vi vi phạm của người nước ngoài về bảo vệ môi trường trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam đối với các tội quy định tại Điều 235 Tội gây ô nhiễm môi trường, Điều 237 Tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sực cố môi trường, Điều 239 Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam.
(ii) Bổ sung tội xâm phạm vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam để khai thác, mua bán thủy sản.
3.2. Liên Đoàn luật sư Việt Nam đề nghị bổ sung 5 tội về tham nhũng gồm: (i) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn đưa hối lộ hoặc làm môi giới hối lộ; (ii) Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước; (iii) Tội nhũng nhiễu; (iv) Tội không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi và (v) Tội bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật.
3.3. Bộ Y tế đề nghị bổ sung thêm Tội môi giới mua bán bộ phận cơ thể người
Về các đề xuất này, Bộ Tư pháp cho rằng, đây là các đề xuất mới nên cần có thêm thời gian nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài…., nên trước mắt chưa đưa vào dự thảo Luật lần này.
3.4. Bộ Khoa học và Công nghệ: đề nghị hình sự hóa một số hành vi có liên quan đến:
Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân (Việt Nam gia nhập năm 2012) như:
(i) Chiếm giữ, sử dụng, chuyển giao bất hợp pháp hoặc làm phát tán vật liệu hạt nhân và gây ra hoặc có thể gây ra tử vong hay thương tích nghiêm trọng cho con người, phá hoại tài sản hay môi trường;
(ii) Lấy cắp hoặc cướp đoạt vật liệu hạt nhân;
(iii) Lừa đảo để chiếm được vật liệu hạt nhân…
(2) Công ước quốc tế về ngăn chặn hành động khủng bố hạt nhân (hiện nay Bộ KH&CN đang làm tiến hành các thủ tục để đề xuất tham gia)như:
(i) Sở hữu vật liệu phóng xạ hoặc tạo ra hoặc sở hữu một thiết bị với mục đích gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng đến cơ thể; hoặc với mục đích gây thiệt hại đáng kể đến tài sản hoặc môi trường;
(ii) Sử dụng vật liệu phóng xạ hoặc một thiết bị, hoặc sử dụng, gây thiệt hại một cơ sở hạt nhân theo bất kỳ cách nào để làm thoát hoặc tạo nguy cơ làm thoát chất phóng xạ với mục đích gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng đến cơ thể hoặc với mục đích gây thiệt hại đáng kể đến tài sản hoặc môi trường; với mục đích buộc một cá nhân hoặc một pháp nhân, một tổ chức quốc tế hoặc một quốc gia làm hoặc không làm một việc.
Bộ Tư pháp nhận thấy, đây là các đề xuất mới, nên cần có thêm thời gian để nghiên cứu, đánh giá, tổng kết thực tiễn, nên đề nghị chưa tiếp thu trong lần sửa đổi, bổ sung này.
4. Đề xuất sửa đổi, bổ sung tên chương XXVI
Bộ Quốc phòng đề nghị sửa đổi lại tên Chương XXVI, vì quy định như BLHS năm 2015 dài, không đầy đủ, không phản ánh hết nội hàm các tội phạm trong chương; đề nghị sửa thành: “Các tội xâm phạm hoạt động quân sự”.
Bộ Tư pháp nhận thấy, đây là vấn đề đã được Ủy ban Quốc phòng, an ninh của Quốc hội khóa 13 cho ý kiến và đã được Quốc hội khóa 13 thông qua, nên đề nghị được giữ nguyên như quy định của BLHS 2015.
5. Một số ý kiến đề xuất quy định lại các tội đã được phi hình sự hóa
Bộ Công an đề nghị quy định lại Tội hoạt động phỉ, tội kinh doanh trái phép. Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cho rằng, đây là vấn đề lớn, đã được cơ quan có thẩm quyền cho ý kiến, Quốc hội khóa 13 thông qua, nên đề nghị giữ nguyên như quy định của BLHS 2015.
Những đề xuất sửa đổi, bổ sung thuần túy về kỹ thuật
– Đề nghị sửa thống nhất: “người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi” và “người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi” (Trung ương Hội luật gia Việt Nam);
– Đề nghị sử dụng thống nhất tên các điều luật về tội danh “Vi phạm các quy định…” và “Vi phạm quy định…”; Đề nghị sử dụng thống nhất cụm từ “phạm tội có tổ chức” và “có tổ chức” (Viện kiểm sát nhân dân tối cao);
– Đề nghị tách quy định về hình phạt bổ sung của pháp nhân tại các điều luật cụ thể thành một khoản riêng (Liên đoàn luật sư Việt Nam);
– Đề nghị sửa cụm từ “pháp nhân” thành cụm từ “tổ chức” để bao quát và thống nhất với trách nhiệm hành chính (Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
[1] Danh mục II – Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu hóa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền
[2] Danh mục I – Các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu hóa học, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền
[3] Các điều 134, 227, 242, 255, 257, 258, 260 – 284, 295 – 298, 301, 302, 304, 305, 307 – 313, 315 – 317 của BLHS năm 2015
[4] Các Điều 217, 232, 233, 235, 244, 249, 250, 252, 326, 359, 369, 410 của BLHS năm 2015
[5] Các Điều 134, 196, 232, 260, 261, 267, 268, 272, 273, 278, 295, 307 của BLHS năm 2015
[6] Khoản 4 các Điều 260, 261; khoản 4, khoản 5 các Điều 267, 268, 272, 273, 295 và khoản 5 các Điều 278, 307 của BLHS năm 2015
[7] Các Điều 112, 134, 135, 158, 175, 190 – 192, 209, 232, 233, 234, 235, 243, 248, 249, 250, 251, 252, 254, 260, 261, 267, 268, 272, 273, 278, 292, 306, 307, 309, 310, 311, 313, 317, 322, 337, 344, 363, 378, 386, 387, 388, 410 của BLHS năm 2015
[8] Các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông (khoản 5 các Điều 260, 261, 268, 273, 278; khoản 4 các Điều 267, 272) và các tội: vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (khoản 5 Điều 307); vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân (khoản 5 Điều 310); vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy (khoản 5 Điều 313)
[9] Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độ (Điều 311); tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322).
[10] Các Điều 19, 26, 81, 93, 177, 178, 186, 188, 189, 195, 200, 201, 203, 206, 210, 211, 213, 219, 225, 226, 234, 238, 239, 241, 245, 246, 254, 325, 338, 346, 350, 353 – 355, 358, 359, 369, 370, 377, 389, 398 của BLHS năm 2015