Để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bên cạnh các nguyên tắc: xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị; xây dựng Quân đội vững mạnh về tổ chức; xây dựng Quân đội tinh nhuệ, trước hết là tinh nhuệ về chính trị và trình độ kỹ thuật, chiến thuật; thực hiện có hiệu quả chủ trương hiện đại hóa Quân đội; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại quốc phòng…; việc tăng cường chấp hành kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước, điều lệnh, điều lệ đối với quân nhân là vấn đề hết sức quan trọng, là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
1. Trách nhiệm của quân nhân theo quy định của pháp luật
Ngày 27/11/2015 Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự năm (BLHS) 2015 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015. BLHS năm 2015 đánh dấu một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường XHCN phát triển đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế…
Bộ luật hình sự đã dành một chương riêng để quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng kỷ luật quân đội, vi phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân. Các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là một chế định của pháp luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và hình phạt đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, là công cụ pháp lý quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm kỷ luật trong quân đội.
q. Những điểm mới của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân:
Về tên gọi: Tên của chương này được sửa đổi từ Chương XXIII BLHS năm 1999 “CÁC TỘI XÂM PHẠM NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN NHÂN”, thành Chương XXV: “CÁC TỘI XÂM PHẠM NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI PHỐI THUỘC VỚI QUÂN ĐỘI TRONG CHIẾN ĐẤU, PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU” tức là mở rộng phạm vi xử lý đối với cả những người có trách nhiệm phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Chương này gồm 29 điều, từ Điều 392 đến Điều 420, so với quy định của BLHS năm 1999 thì nhiều hơn 03 điều luật.
Chương này có một số sửa đổi, bổ sung sau đây:
Một là: Mở rộng phạm vi đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đối với “4. Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội” (Điều 392).
Hai là: quy định cụ thể tình tiết định khung “trường hợp đặc biệt khác” trong một số điều luật bằng hai tình tiết:
“Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn” và “trong tình trạng khẩn cấp”. Hai tình tiết này cũng được bổ sung trong một số điều luật của Chương này như Tội trốn tránh nhiệm vụ (Điều 403), Tội báo cáo sai (Điều 408), Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy (Điều 409).
Ba là: Sửa đổi, bổ sung tên một số tội phạm:
– Sửa tên “Tội vi phạm chính sách đối với thương binh, tử sỹ trong chiến đấu” thành “Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh” (Điều 417).
– Sửa “Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” thành “Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự” (Điều 413). Điều luật này, ngoài việc sửa từ “phương tiện kỹ thuật quân sự” thành “trang bị kỹ thuật quân sự” còn bổ sung “Tội cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự”.
– Bổ sung thêm “Trang bị kỹ thuật quân sự” trong tội “Tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự” (Điều 412).
– Bổ sung thêm hành vi “Không làm nhiệm vụ trong chiến đấu” trong “tội bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu” (Điều 401).
Bốn là: Nhìn chung nhiều quy định về mức hình phạt trong cấu thành cơ bản và cấu thành tăng nặng đã được giảm nhẹ hơn như Tội đào ngũ (Điều 402), Tội trốn tránh nhiệm vụ (Điều 403), Tội vi phạm quy định về bảo vệ (Điều 410), Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm (Điều 419). Bỏ hình phạt tù chung thân trong tội bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu (Điều 401).
Năm là: Tách một số tội ghép thành các tội riêng
– Tách tội làm nhục, hành hung đồng đội (Điều 321 BLHS năm 1999) thành hai tội:
+ Tội làm nhục đồng đội (Điều 397).
+ Tội hành hung đồng đội (Điều 398).
– Tách tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự thành hai tội:
+ Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự (Điều 406)
+ Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự (Điều 407)
Việc tách riêng các tội phạm trong các tội ghép nhằm bảo đảm việc quy định và xử lý đúng hơn đối với các hành vi có tính nguy hiểm khác nhau.
Sáu là: Bổ sung thêm một số tội danh mới:
– Bổ sung tội “Ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393)
– Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ (Điều 418). Tội này được xây dựng từ việc tách từng tình tiết tăng nặng của khoản 4 Điều 336 BLHS năm 1999.
Bảy là: Bãi bỏ hai tội “Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 319 BLHS năm 1999) và “Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới (Điều 320 BLHS năm 1999). Các dấu hiệu của hai tội này được quy định trong tội làm nhục đồng đội (Điều 397) và “Tội hành hung đồng đội” (Điều 398) của luật này.
Tám là: Hầu hết các điều luật vẫn giữ nguyên các tình tiết có tính chất định tính về hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, cũng có một số điều luật quy định cụ thể về thiệt hại nghiêm trọng về tài sản. Ví dụ khoản 1 Điều 410, khoản 1 và khoản 3 Điều 416; Quy định cụ thể về giá trị lớn hoặc rất lớn được lượng hóa trong các khoản 1, 2 và 3 Điều 419; hoặc số lượng được quy định cụ thể ở điểm b khoản 2 Điều 417. “Đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sĩ trở lên”.
Hướng dẫn xử lý hành vi không chấp hành Lệnh khám nghĩa vụ quân sự
Hồ Nguyễn Quân
(Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4)