1.1. Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mấy uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm.. và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
1.2. Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
Căn cứ vào 4 nguyên tắc trên và tình huống đề ra thì:
+ Đã có thiệt hại xảy ra, cụ thể: B bị chấn thương vùng đầu và điều trị hết 20 triệu đồng.
+ Cả A và B đều có hành vi trái pháp luật: A chạy quá tốc độ, B không đội mũ bảo hiểm. Tuy nhiên 2 hành vi này khác nhau ở chổ: hành vi của A là nguyên nhân gây ra tai nạn còn hành vi của B chỉ vi phạm hành chính chứ không phải là nguyên nhân gây tai nạn.
+ Có mối quan hệ nhân quả: Ở đây hành vi chạy xe quá tốc độ là nguyên nhân gây tai nạn cho B, và thiệt hại của B là kết quả của hành vi chạy xe quá tốc độ của A.
Việc B không đội mũ bảo hiểm là vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ nhưng không phải là nguyên nhân dẫn đến A chạy quá tốc độ gây tai nạn cho B, do đó A phải bồi thường TOÀN BỘ thiệt hại cho B.
+Yếu tố lỗi: Ở đây A có dấu hiệu của lỗi vô ý, nghĩa là A biết được hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho người khác nhưng cho rằng mình có thể kiểm soát được.
Như vậy, theo Điều 604 BLDS 2005, hướng dẫn của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP và phân tích nêu trên thì A phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho B.
Câu 2. Số người có đáp án đúng:….
Chúc các bạn đạt giải.
Đáp án kỳ 12: Xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp