Một số sai sót trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai

Trangtinphapluat.com tổng hợp, giới thiệu tới bạn đọc những sai sót trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã theo Báo cáo 455/BC-VC2 ngày 20/4/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao thành phố Đà Nẵng về nhận diện vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai thông qua công tác kiểm soát việc  giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên từ năm 2020-2022.

1. Giải quyết khiếu nại không đúng đối với trường hợp UBND cấp xã vượt quá thẩm quyền khi xem xét hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Điển hình là vụ án: Ông Phạm Tỵ  khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 314/QĐ-UBND  ngày 04/5/2019 của Chủ tịch UBND thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Ngày 18/9/2018,  ông Tỵ nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ngày 11/10/2018, UBND phường Duy Tân ban hành Thông báo trả lại hồ sơ cho ông Tỵ vì không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Tỵ khiếu nại thì Chủ tịch UBND phường Duy Tân  ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu với nội dung không công nhận nội đơn khiếu nại của ông Tỵ.  Ông Tỵ tiếp tục khiếu nại và Chủ tịch UBND thành phố Kon Tum ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai giữ nguyên nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND xã
Một số sai sót trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai của UBND cấp xã

Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Kon Tum phối hợp với UBND phường Duy Tân tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thực địa thửa đất. Tại bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 02/8/2018  ông Tỵ không ký vì không đồng ý với ranh giới xác định của hai đơn vị trên.  Quá trình thực hiện chỉ có 01 cán bộ dẫn đạc nhưng không rõ chức danh, công tác ở đơn vị nào; không có người sử dụng đất liền kề chứng kiến và ký xác nhận. Bản mô tả ranh giới này là không hợp pháp , không phải là tài liệu, chứng cứ pháp lý nhưng UBND phường Duy Tân căn cứ để ban hành  Thông báo trả lời về hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  cho ông Phạm Tỵ là không đúng.

Mặt khác theo quy định tại Điều 70 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ  thì UBND phường không có thẩm quyền trả lại hồ sơ đề nghị đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc Chủ tịch UBND phường Duy Tân và thành phố Kon Tum không công nhận nội dung khiếu nại của ông Tỵ là không đúng quy định.

2. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với việc từ chối giải quyết hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND cấp xã

Điển hình vụ án: Ông Đỗ Kim Hùng khởi kiện Chủ tịch UBND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.

Ông Đỗ Kim Hùng nhiều lần nộp hồ sơ đề nghị UBND huyện Vạn Ninh công nhận quyền sử dụng đất. Ngày 08/11/2019, UBND xã Đại Lãnh có Thông báo số 72/TB-UBND từ chối giải quyết hồ sơ. Ông Hùng khiếu nại, Chủ tịch UBND xã Đại Lãnh và Chủ tịch UBND huyện Vạn Ninh giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Hùng.

Theo quy định tại Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013 thì “hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này…nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là người sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Như vậy, theo quy định của pháp luật về đất đai, thì trách nhiệm của UBND cấp xã trong quản lý đất đai là xác nhận, thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai như xác nhận nguồn gốc đất, tình trạng đất.

Đối chiếu theo quy định tại Điều 70 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì UBND cấp xã không có thẩm quyền ban hành thông báo từ chối giải quyết hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc UBND xã Đại Lãnh ban hành Thông báo số 72/TB-UBND nêu trên không đúng thẩm quyền nên Chủ tịch UBND xã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại bác đơn ông Hùng là không đúng. Bởi vì theo quy định của Luật Đất đai, trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới có thẩm quyền xem xét trả lời việc giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

3. Vi phạm thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND xã, phường đối với nội dung khiếu nại về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo các Điều 61, 62 Luật Đất đai 2013

Điển hình như vụ án: Ông Lê Công Kính khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các Quyết định giải quyết khiếu nại  của Chủ tịch UBND phường Trần Quang Diệu và Chủ tịch UBND thành phố Quy Nhơn.

Thực hiện Dự án nâng cấp đường, UBND thành phố Quy Nhơn đã ban hành quyết định thu hồi 02 thửa đất của hộ gia đình ông Kính. Do UBND phường Quang Diệu xác định 02 thửa đất trên là đất công ích 5% nên hộ ông Kính chỉ được bồi thường 30% giá trị về đất. Không đồng ý với phương án bồi thường này, ông Kính gửi đơn khiếu nại đến UBND phường và Chủ tịch UBND phường Trần Quang Diệu ban hành quyết định giải quyết khiếu nại với nội dung không công nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Lê Công Kính. Ông Kính tiếp tục khiếu nại và Chủ tịch UBND thành phố Quy Nhơn ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 với nội dung giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND phường Trần Quang Diệu.

Theo quy định tại Điều 66, 69 của Luật Đất đai 2013 , thẩm quyền thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư  khi nhà nước thu hồi đất thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, UBND cấp xã không có thẩm quyền. Do đó, UBND phường Trần Quang Diệu không có thẩm quyền thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nên Chủ tịch UBND phường Trần Quang Diệu không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nêu trên.

4. UBND giải quyết tranh chấp đất đai đối với trường hợp tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự , có hình thành tài sản trên đất là không đúng thẩm quyền

Vụ án giữa người khởi kiện là ông Lê Văn Cường và người bị kiện là Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định, Chủ tịch UBND thành phố Quy Nhơn. Theo Bản đồ địa chính năm 2001, thì thửa đất số 266, diện tích 344,3m2, loại đất thổ cư T, đứng tên chủ sử dụng là bà Trương Thị Xuân Thu; thửa đất số 198 có nguồn gốc là của ông Lê Ba. Ngày 12/10/2004, ông Cường sang nhượng thửa đất số 198 , diện tích 166.5m2, loại đất trồng rau từ bà Võ Thị Hạt và ông Lê Thành Công (là vợ con ông Lê Ba); hai bên có giấy viết tay (không có xác nhận của chính quyền địa phương). Ngày 12/3/2010, ông Cường có đơn xin đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 266 diện tích 105m2, mục đích làm nhà ở thì phát sinh tranh chấp với bà Thu. Ngày 14/6/2013, Chủ tịch UBND thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định ban hành Quyết định 7247/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất giữa ông Cường và bà Thu có nội dung: “Công nhận một phần nội dung đơn của bà Trương Thị Xuân Thu tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Lê Văn Cường tại thửa đất 266, tờ bản đồ 08 thuộc tổ 2, khu 5 phường Nhơn Phú…” Quyết định 2297/QĐ-UBND ngày 04/7/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định về việc giải quyết khiếu nại của ông Cường và bà Thu có nội dung: Không công nhận nội dung đơn ông Cường khiếu nại hủy Quyết định 7247/QĐ-UBND.

Nhận thấy các bên đều xác định ông Cường, bà Thu có thỏa thuận miệng hoán đổi đất cho nhau; theo đó bà Thu cho ông Cường sử dụng phần đất trống thuộc thửa đất số 266 nằm trước thửa đất số 198 để làm lối đi ra đường Hùng Vương, ông Cường sẽ hoán đổi phần đất nông nghiệp thuộc thửa 198 nằm phía sau thửa đất 266 cho bà Thu sử dụng. Bà Thu có cho người xây dựng móng nhà trên phần đất thuộc thửa 266 và vợ chồng ông Cường đã thanh toán tiền xây móng cho bà Thu là 9.629.000đ (có kèm theo giấy viết nhận tiền). Do có việc thỏa thuận như trên nên việc tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa ông Cường bà Thu là quan hệ dân sự  thông qua hợp đồng miệng  thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Việc Chủ tịch UBND thành phố Quy Nhơn và Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp  giữa ông Cường bà Thu là không đúng thẩm quyền quy định tại Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

5. UBND vi phạm không tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai 

Theo khoản 2, 3 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 “2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất để  hòa giải. 3. Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải  tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai được tại UBND cấp xã  được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai”.

Chủ tịch UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp khi có đơn đề nghị của các bên mà không tổ chức hòa giải là không đúng quy định trên và tiến hành hòa giải vượt quá 45 ngày là không đúng quy định.

Điển hình là vụ án: Ông Nguyễn Hẵn tranh chấp đất với ông Huỳnh Ta do hai bên không tự hòa giải được  nên ông Hẵn có đơn yêu cầu UBND xã Phổ Thuận tổ chức hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Huỳnh Ta. Nhưng UBND xã Phổ Thuận cho rằng ông Huỳnh Ta lấn chiếm đất công , không phải lấn chiếm đất của ông Hẵn  nên không tiến hành hòa giải. Từ năm 2012 đến năm 2017, ông Hẵn nhiều lần có đơn gửi đến UBND xã Phổ Thuận  yêu cầu xử lý và hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng UBND xã Phổ Thuận  và Chủ tịch UBND xã Phổ Thuận không giải quyết. Ông Hẵn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ tuyên: Chủ tịch UBND xã PHổ Thuận vi phạm thời hạn hòa giải và buộc Chủ tịch UBND xã Phổ Thuận  tổ chức hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông với ông Huỳnh Ta.

Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 08/2021/HC-GĐT ngày 20/9/2021, của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng sửa Bản án Phúc thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ  yêu cầu khởi kiện của ông Hẵn.

Rubi

Tác giả Nguyễn Quốc Sử

Dịch vụ: Tư vấn pháp luật, bài giảng pháp luật, Tài liệu thi Công chức, Viên chức, thi nâng ngạch công chức... Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *