Theo Tờ trình của Bộ Lao động TBXH về dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 thì quá trình soạn thảo dự án Luật, có một số nội dung lớn còn ý kiến khác nhau như sau:
1. Về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
Điều 37 của Bộ luật Lao động quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động phải gồm 2 điều kiện (1) có lý do được quy định bởi luật; và (2) tuân thủ thời hạn báo trước. Riêng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì chỉ cần báo trước 45 ngày mà không cần lý do.
Quá trình soạn thảo, có ý kiến đề xuất: Đề nghị bỏ lý do, chỉ cần yêu cầu về thời hạn báo trước. Các ý kiến này cho rằng bãi bỏ quy định này để đảm bảo quyền được lựa chọn việc làm tốt hơn cho người lao động và phòng chống cưỡng bước lao động: bất cứ khi nào mà người lao động cảm thấy không hài lòng với việc làm hiện tại hoặc tìm kiếm được việc làm tốt hơn ở doanh nghiệp khác thì họ sẽ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần có lý do, chỉ cần báo trước. Đồng thời, quy định báo trước một thời hạn nhất định để doanh nghiệp biết, chủ động trong việc tìm kiếm lao động thay thế.
(So sánh Bộ luật Lao động 2019 với Bộ luật Lao động 2012 – phần 1)
Tuy nhiên, có ý kiến đề xuất giữ như quy định hiện hành (có lý do và thời hạn báo trước)
Do vậy, dự thảo Luật hiện đang để 2 Phương án tại Điều 37 để xin ý kiến.
2. Về chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu
Khoản 4 Điều 36 của Bộ luật Lao động hiện hành quy định việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động khi có đủ 2 điều kiện: tuổi đời và thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Thực tiễn thực hiện quy định này trong thời gian vừa qua, các doanh nghiệp đã nhiều lần đề nghị sửa đổi quy định này vì doanh nghiệp không được chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động đủ/quá tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian tham gia bảo hiểm xã hội. Điều này làm cho doanh nghiệp khó bố trí sản xuất (vì người lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc) hoặc có thể dẫn tới vi phạm pháp luật (vì luật lao động cấm sử dụng lao động cao tuổi trong những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm).
Quá trình soạn thảo, có ý kiến đề xuất như sau: bỏ quy định này hoặc giữ quy định này nhưng bổ sung quyền đơn phương chấm dứt chấm dứt hợp đồng lao động cho người sử dụng lao động nếu người lao động đủ tuổi nghỉ hưu.
Do vậy, dự thảo Luật hiện đang thể hiện theo Phương án giữ quy định này nhưng bổ sung quyền đơn phương chấm dứt chấm dứt hợp đồng lao động cho người sử dụng lao động nếu người lao động đủ tuổi nghỉ hưu tại Điều 36 và Điều 38 để xin ý kiến.
3. Về mức lương tối thiểu
Khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Lao động hiện hành quy định: mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Thực tiễn thực hiện quy định này trong thời gian vừa qua cho thấy việc xác định nhu cầu sống tối thiểu là rất khó định lượng vì nhu cầu sống gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu về tinh thần. Trong khi, nhiều ý kiến chuyên gia đánh giá rằng mức lương tối thiểu vùng hiện nay chưa đáp ứng được đầy đủ mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Quá trình soạn thảo, có ý kiến đề xuất: Sửa đổi quy định mức lương tối thiểu theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” và đề nghị bổ sung thêm các yếu tố xác định mức lương tối thiểu vùng để làm căn cứ cho Hội đồng tiền lương quốc gia nghiên cứu đề xuất.
Do vậy, dự thảo Luật hiện đang thể hiện theo Phương án trên tại Điều 91, 92 và bổ sung một điều mới 92a.
4. Về Tăng thời giờ làm thêm
Điều 106 của Bộ luật Lao động hiện hành quy định số giờ làm thêm tối đa của người lao động là không quá 30 giờ/tháng và 1 năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt không quá 300 giờ.
Thực tiễn thực hiện quy định này trong thời gian vừa qua, rất nhiều ý kiến đề nghị cần tăng thời giờ làm thêm tối đa để: (1) đáp ứng nhu cầu của đa số doanh nghiệp; (2) đáp ứng nhu cầu của một bộ phận không nhỏ người lao động có nguyện vọng làm thêm để tăng thêm thu nhập; (3) tăng tính cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực: trong mối tương quan so sánh với các quốc gia khu vực thì số giờ làm thêm tối đa của người lao động Việt Nam hiện ở mức thấp (Trung Quốc: 36 giờ/tháng, Indonexia: 56 giờ/tháng, Singapore: 72 giờ/tháng; Thailand: 36 giờ/tuần; Malaysia: 104 giờ/tháng; Lào: 45 giờ/tháng; Campuchia và Philippines: Không khống chế.
Quá trình soạn thảo, có ý kiến đề xuất: tăng số giờ làm thêm tối đa theo hướng quy định 01 ngày làm việc thì người lao động làm việc bình thường và làm thêm giờ tối đa không quá 12 giờ/ngày và không được phép huy động người lao động làm thêm giờ liên tục quá 05 ngày làm việc cho mỗi đợt làm thêm giờ.
Do vậy, dự thảo Luật hiện đang thể hiện 2 Phương án tại Điều 106 để xin ý kiến.
5. Về Tuổi nghỉ hưu
Điều 187 của Bộ luật Lao động quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường là 60 đối với nam và 55 đối với nữ.
Tăng tuổi nghỉ hưu là một nội dung lớn đã từng được đặt ra nhiều lần trong quá trình soạn thảo luật nhưng chưa được Quốc hội thông qua: Luật Bình đẳng giới năm 2007, Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Lần sửa đổi này, tiếp tục có nhiều ý kiến đề nghị tăng tuổi nghỉ hưu vì những lý do sau: (1) Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam những năm gần đây đã tăng nhiều so với giai đoạn trước đây [1] và khoảng cách giữa tuổi thọ bình quân với tuổi nghỉ hưu bình quân là rất dài [2] nên thực tiễn nhiều người nghỉ hưu vẫn tiếp tục tham gia lao động, có nhu cầu làm việc thêm, và họ vẫn có đủ sức khỏe tham gia lao động tiếp; (2) Dân số nước ta đang chuyển từ thời kỳ dân số vàng sang giai đoạn già hóa dân số, trong tương lai lực lượng lao động trẻ sẽ thiếu hụt; (3) nếu cứ giữ tuổi nghỉ hưu như hiện tại thì quỹ hưu trí, tử tuất không đảm bảo trong dài hạn; (4) bảo đảm sự không phân biệt đối xử về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế như Công ước Cedaw, công ước của ILO…; (5) tận dụng được nguồn nhân lực động có trình độ, kỹ thuật cao và có kinh nghiệm; (6) kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã và đang điều chỉnh tăng tuổi hưu, có nước lên tới 67 tuổi;
Do còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nên dự thảo Luật hiện đang thể hiện 2 Phương án tại Điều 187 để xin ý kiến:
Phương án 1: giữ như hiện hành nam là 60 và nữ là 55.
Phương án 2: tăng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62 và nữ lên 60, tăng theo lộ trình mỗi năm tăng 3 tháng để đảm bảo việc tăng tuổi nghỉ hưu được vận hành “mượt mà”, không gây xáo trộn mạnh đến việc bố trí và sử dụng lao động.
6. Về Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp
Trước đây, Bộ luật Lao động năm 1994 đã quy định ở những nơi chưa thành lập được công đoàn cơ sở thì tập thể lao động có quyển cử đại diện để tổ chức và lãnh đạo đình công. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 2012 chỉ quy định tổ chức đại diện tập thể lao động tại doanh nghiệp là công đoàn cơ sở, và ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở thì công đoàn cấp trên cơ sở là đại diện.
Quá trình soạn thảo, có ý kiến đề nghị sửa đổi theo hướng cho phép người lao động được quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn hoặc tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp để đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động.
Nếu sửa đổi theo ý kiến này thì cần thiết phải có quy định nhằm: bảo đảm sự ra đời, hoạt động của tổ chức của người lao động; tạo điều kiện để tổ chức này hoạt động lành mạnh trong quan hệ lao động; và quản lý có hiệu quả sự ra đời và hoạt động của tổ chức này nhằm giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Do đây là vấn đề mới, chưa dự kiến được những phát sinh trong thực tiễn khi áp dụng nên quá trình soạn thảo, có ý kiến như sau:
– Ý kiến 1: Dự thảo luật chỉ quy định về nguyên tắc quyền thành lập, gia nhập và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; các quy định cụ thể về điều kiện thành lập, trình tự, thủ tục đăng ký, điều kiện hoạt động của tổ chức đó sẽ do Chính phủ quy định chi tiết bởi một Nghị định để bảo đảm điều chỉnh linh hoạt trong thực tiễn áp dụng
– Ý kiến 2: Quy định tất cả các nội dung liên quan đến tổ chức này ngay trong dự thảo Luật.
Dự thảo Luật hiện đang thể hiện theo ý kiến 1 tại Chương 13.
[1] Những năm 1960 là: nam 60, nữ 55. Đến nay là: nam 73, nữ 75
[2] Tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 là 54,17.
Rubi