Trong quá trình thi hành công vụ, người có thẩm quyền phát hiện có hành vi vi phạm trên lĩnh vực đất đai nhưng không xác định được đối tượng vi phạm hành chính. Sau khi lập biên bản , người lập biên bản đã chuyển hồ sơ cho người có thẩm quyền để ban hành quyết định áp dụng biện pháp buộc khắc phục hậu quả đối với trường hợp không xác định được đối tượng vi phạm hành chính theo Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, khi nhận hồ sơ thì người có thẩm quyền xử phạt đã yêu cầu tiến hành xác minh đối tượng vi phạm hành chính. Qua xác minh đến ngày, cơ quan được giao xác minh đã tiến hành lập biên bản xác minh và đã xác định được đối tượng vi phạm hành chính.
Vậy, trong trường hợp này tiến hành xử phạt như thế nào cho đúng pháp luật? Việc xác định thời hạn ban hành quyết định xử phạt (quyết định khắc phục hậu quả) tính từ lúc lập biên bản vi phạm hành chính đến lúc ban hành quyết định xử phạt hay là tính từ thời điểm xác minh được đối tượng vi phạm hành chính?.
Trangtinphapluat.com trả lời như sau:
1. Về giá trị pháp lý của biên bản VPHC và biên bản xác minh tình tiết vi phạm hành chính
Theo Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền có quyền xác minh tình tiết vi phạm hành chính. Việc xác minh tình tiết vi phạm được thực hiện theo biểu mẫu biên bản số05 Nghị định 118/2021/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Do đó, nếu việc xác minh đảm bảo theo biểu mẫu của Nghị định 118/2021/NĐ-CP thì có giá trị pháp lý, biên bản xác minh tình tiết vi phạm này cùng với biên bản vi phạm hành chính ban đầu là cơ sở để người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt nếu còn thời hạn hoặc ban hành quyết định áp dụng biện pháp buộc khắc phục hậu quả nếu hết thời hạn ban hành quyết định xử phạt.
Trường hợp việc xác minh không theo nội dung và mẫu của Nghị định 118 thì cần phải lập biên bản xác minh tình tiết vi phạm hành chính để làm cơ sở cho việc ban hành quyết định xử phạt hoặc khắc phục hậu quả.
2. Thời hạn ban hành quyết định xử phạt tính từ khi nào?
2.1. Đối với ban hành quyết định lần đầu
– Theo Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, sửa đổi, bổ sung 2020 thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
+ Đối với vụ việc không thuộc trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này, thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này;
+ Đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính;
+ Đối với vụ việc thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Như vậy, theo Luật XLVPHC thì thời hạn ban hành quyết định xử phạt tính từ thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính chứ không phải thời điểm lập biên bản xác minh tình tiết vi phạm hành chính.
(Biên bản vi phạm hành chính phải được lập trong vòng 24 giờ?)
– Bên cạnh đó, theo giải đáp nghiệp vụ của Tòa án nhân dân Tối cao tại Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 thì:
Thời hạn ban hành quyết định mới theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính.